Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH XUÂN SƠN

19/03/2018 00:00        
Đọc tin

Tọa lạc tại thôn Xuân Sơn, xã Vĩnh Trung, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Lúc đầu, khi mới lập làng Xuân Sơn chưa đến 20 hộ dân cư; làng do các ông Huỳnh Văn Thọ, Huỳnh Văn Xây gốc Quảng Nam và ông Nguyễn Tán gốc Bình Định lập nên (hiện nay trở thành Tiền hiền của làng). Đến khoảng thế kỷ XVIII, nhân dân nơi đây tạo dựng ngôi đình Xuân Sơn gần cầu Đình cách đường xe lửa khoảng 20m (tục danh gọi là đất cây Ké).

Năm 1947, Xuân Sơn là địa điểm hoạt động cách mạng, nên giặc Pháp đập phá đình, gỡ vật liệu xây lô cốt giữ cầu xe lửa và bắt toàn dân di tản khỏi thôn qua bên kia sông Quán Trường; đến năm 1956, dân làng hồi cư và thành lập lại làng cho tới ngày nay.

Năm 1960, nhân dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng lại ngôi đình khang trang bằng gạch vôi vữa tại ngã ba, trung tâm của thôn; năm 2016 – 2017 đình được xây dựng lại về phía đầu làng, vì vị trí cũ nằm trong ranh giới đường Cao Bá Quát – Cầu Lùng (Nha Trang đi Diên Khánh).

Đình thờ Thành Hoàng, Thiên Y A Na, Tiền hiền, Hậu hiền, liệt sĩ.

Hiện nay, đình còn lưu giữ 05 sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng:

- Sắc Tự Đức năm thứ 5 (1852) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng;
- Sắc Tự Đức năm thứ 33 (1880) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng;
- Sắc Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng;
- Sắc Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng;
- Sắc Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng.

Trước kia đình tổ chức “Xuân kỳ Thu tế”, nhưng hiện nay lễ hội đình Xuân Sơn định kỳ hàng năm tổ chức vào ngày 10 và 11/3 âm lịch.

Trước năm 1945, đình Xuân Sơn là nơi tụ họp của phong trào Việt Minh, trong đó có ông Huỳnh Ngọt làm Xã Đội trưởng, sau đó ông bị Pháp bắt đi tù ở Côn Đảo 5 năm và bị đày đi biệt xứ 10 năm ở Ninh Thuận. Đầu năm 1946, phòng tuyến số 1 Nha Trang bị vỡ, một bộ phận bộ đội Việt Minh kéo về đình Xuân Sơn để củng cố lực lượng cho Mặt trận Cây Da - Quán Giếng.

Đình quay hướng Bắc, có tổng diện tích 1.634,2m2; gồm các hạng mục công trình như nghi môn, võ ca, tiền tế, chính điện, miếu Thiên Y, miếu Tiền hiền, nhà đông.

Ghi nhận những giá trị lịch sử - văn hóa của di tích, năm 2007 UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2017/QĐ-UBND xếp hạng đình Xuân Sơn là Di tích cấp tỉnh.

                                                                                      Hoàng Quý

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                     

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH PHƯỚC HẢI
Đình Phước Hải là một trong những ngôi đình cổ tồn tại đã hơn 200 năm. Di tích đã gắn bó với bà con làng Phước Hải từ những ngày đầu khai hoang lập ấp. Hiện nay, di tích còn lữu giữ được kiến trúc mang đậm dấu ấn đầu triều Nguyễn; không những vậy, đình Phước Hải còn là bằng chứng chân thật đánh dấu quá trình lịch sử vẻ vang của địa phương; lễ hội truyền thống của đình vẫn được diễn ra hàng năm với đầy đủ các nghi thức.
CHÙA HỘI PHƯỚC
Chùa Hội Phước (chùa Cát) được chọn là nơi tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm cụ Phan Chu Trinh đã thể hiện tinh thần yêu nước của chư tăng và phật tử, thể hiện tinh thần một lòng hướng về cách mạng, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta trong điều kiện phong trào cách mạng đang ở giai đoạn trứng nước.
ĐÌNH NGỌC HỘI
Đình Ngọc Hội có tên là đình Ngọc Toản, lấy theo tên gọi của làng. Các địa danh: Vĩnh Ngọc, Lư Cấm, Vĩnh Hội, Ngọc Thảo, Ngọc Sơn ngày nay đều nằm trong địa phận làng Ngọc Toản. Sự kiện tách làng đến nay không còn ai nhớ chính xác mốc thời gian nhưng căn cứ vào các tài liệu và văn tự Hán Nôm ở Đình thì ta có thể đoán định thôn Ngọc Toản được tách ra thành hai làng Lư Cấm và Ngọc Hội vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
ĐÌNH VÕ DÕNG
Đình Võ Dõng tọa lạc tại thôn Võ Dõng, xã Vĩnh Trung, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Căn cứ vào sắc phong sớm nhất mà đình còn lưu giữ được, có thể đoán định đình được xây dựng từ trước năm 1852. Lúc đầu đình được dựng lên ở khu vực Gò Đình, đến năm 1930 dời về vị trí hiện nay.
VĂN CHỈ VĨNH XƯƠNG
Văn chỉ Vĩnh Xương là một tòa nhà có bố cục kiểu chữ “nhất” với Tiền tế ở phía trước và Chính điện ở phía sau. Hệ thống chịu lực chính của Văn chỉ là các trụ cột, chân cột đứng trên tảng đá vừa tạo thế vững chắc vừa bảo vệ cột gỗ qua thời gian.
MIẾU AN LẠC
Miếu An Lạc được hình thành từ lâu đời không rõ niên đại, ban đầu chỉ là một thủ kỳ nhỏ để thờ tự Đệ Bát Tiên Nương. Theo lưu truyền dân gian: Bà vốn là người Chăm ở Bình Thuận, từ khi sinh ra đến năm 7 tuổi không biết nói, không biết đi, không biết đứng. Đến năm 8 tuổi, tự nhiên Bà biến mất, sau đó hiển linh tại vị trí miếu An Lạc ngày nay.
CHIÊU ỨNG TỪ NHA TRANG
Đền Chiêu Ứng Nha Trang được xây dựng khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, để tưởng nhớ 108 người Hoa kiều và một trẻ em đã bị chết oan năm 1851 ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vụ án đã được vua Tự Đức phân xử công minh. Điều đó thể hiện sự minh bạch và lòng nhân đức của một bậc minh quân.
CHÙA ĐÀO VIÊN
Chùa Đào Viên thuộc tổ dân phố 7 Lư Cấm, phường Ngọc Hiệp, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1919, Đại sư Thích Hoằng Tín lập am tranh nhỏ ở gò đất hoang của làng. Hiện nay, chùa Đào Viên do Đại đức Thích Như Đông trụ trì. Ban đầu chùa thờ Quan Thánh Đế Quân. Năm 1930, Chùa Ông phối thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu và chư vị Thánh Tổ. Ngoài ra, chùa thờ “Tam giáo đồng nguyên” gồm: Phật giáo, Nho Giáo và Lão giáo, theo tư tưởng và triết học Phương Đông xưa kia.
ĐÌNH XUÂN PHONG
Đình Xuân Phong quay hướng Bắc, tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng, cao ráo tại thôn Trung, xã Vĩnh Phương. Hiện nay đình Xuân Phong có khuôn viên rộng 1.593,4m2. Đình có hệ mái kiểu cổ lầu, mái lợp ngói âm dương. Tuy đã được trùng tu tôn tạo, nhưng đình vẫn được giữ lại bộ kết cấu khung gỗ, những mảng chạm khắc, hoa văn trang trí hình rồng, phụng.
ĐÌNH VĨNH XUÂN
Đình Vĩnh Xuân trước đây là miếu thờ Thiên Y A Na, tồn tại lâu đời trên mảnh đất Vĩnh Xuân, Vĩnh Thái, đã trải qua nhiều thăng trầm cùng cuộc sống của người dân làng Vĩnh Xuân. Xưa kia, nơi đây chỉ là một gò đất cao, có vài nóc nhà tranh tre và người dân địa phương đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ bằng tranh tre, nứa lá để thờ Thiên Y A Na, thổ địa với mong muốn phù hộ cho dân làng làm ăn sinh sống.