Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH QUANG ĐÔNG

18/03/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Quang Đông tọa lạc tại thôn Quang Đông, xã Ninh Đông, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Về tên gọi, tên gọi của đình làng xuất phát từ việc lấy tên làng Quang Đông để đặt cho đình. Trước kia, làng vốn có tên chữ là “Quan Đông”[1], tuy nhiên, hiện nay trong văn nói và các văn bản hành chính đều dùng chữ “Quang Đông” nên di tích cũng được gọi theo tên làng là đình Quang Đông.

Về bối cảnh lịch sử của làng, theo ký ức của hào lão địa phương, thuở mới khai hoang mở đất, từ khu vực thôn Quang Đông đến Gò Dinh (thôn Phú Văn, xã Ninh Trung) là vùng nước biển mênh mông, đào sâu xuống lòng đất 5-7m, người ta thấy những dây neo, móc xích như ở vùng Gò Tàu (phường Ninh Hiệp). Người đầu tiên đến làng Quang Đông khai hoang, lập làng là những cư dân đến từ các tỉnh miền Bắc, họ thường chọn những địa điểm đồi gò, nơi cao ráo ven biển hay dọc hai bên kênh rạch để thuận lợi cho việc đi lại cũng như sinh kế. Sau khi chọn vị trí thuận lợi để an cư, cư dân tiến hành lựa chọn vị trí đất tốt để canh tác nông nghiệp, vốn là một nước thuần nông nên ngay từ thuở ban sơ, người dân đã biết “đào mương lên liếp” trong trồng trọt. Từ đây, đã chi phối đến việc lựa chọn vị thần chung của làng và Bản Cảnh Thành Hoàng được xem là vị thần chủ đạo của làng thuần nông Quang Đông[2].

Về niên đại, căn cứ trên đạo sắc phong sớm nhất mà vua Tự Đức năm thứ 05 (1852) ban tặng cho làng Quang Đông được thờ tại đình làng, có thể xác định niên đại tương đối của di tích là vào cuối thế kỷ XVIII.

Hiện tại, đình Quang Đông còn lưu giữ được 05 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng cho Bản Cảnh Thành Hoàng dưới các triều vua sau:
- Triều vua Tự Đức năm thứ 05 (1852);
- Triều vua Tự Đức năm thứ 33 (1880);
- Triều vua Đồng Khánh năm thứ 02 (1886);
- Triều vua Duy Tân năm thứ 03 (1909);
- Triều vua Khải Định năm thứ 09 (1924).

Đình Quang Đông được dựng lên để thờ Bản Cảnh Thành hoàng, Tiền hiền, Sơn Lâm chúa tướng, Lý Nhĩ tôn thần, mục đồng, mục tượng.

Từ khi khởi dựng tới nay, đình Quang Đông đã trải qua các năm tu bổ như: 1912, 1973, 2003, 2008.

Về kiến trúc, Đình Quang Đông tọa lạc ở giữa cánh đồng, trong khuôn viên với tổng diện tích 2.685m2, mặt tiền quay về hướng Tây Nam. Từ ngoài vào trong, đình Quang Đông có bố cục mặt bằng tổng thể gồm: Nghi môn, án phong, đại đình (Tiền tế và chính điện), miếu Mục đồng, miếu Mục tượng, nhà đông, nhà bếp, miếu Âm hồn, nhà tiền hiền.

Điểm nổi bật của di tích là hệ thống kết cấu khung gỗ cổ truyền còn được bảo lưu tương đối nguyên vẹn và đầy đủ theo nguyên tắc truyền thống. Toàn bộ kết cấu khung gỗ của chính điện gồm 30 cây cột với 5 hàng chân cột. Chính điện có kết cấu 02 bộ vì tạo thành 01 gian 02 chái với 04 cột cái (chu vi 97cm ), 12 cột quân (chu vi 92cm ), 14 cột hiên (xây chìm trong tường). Trên 4 cột cái vẽ hình rồng cuốn tròn quanh thân cột, đầu quay xuống dưới rất sinh động. Các đầu dư cũng được chạm hình đầu rồng.

Trang trí trên kiến trúc phong phú về chủ đề và đa dạng về thể loại với các điển tích, điển cố như: ở tiền tế là linh vật ngựa đỏ, tùng lộc, chim phượng…; ở chính điện là các bức tranh “Hoa điểu” (Chim và hoa), “Liên áp” (Sen vịt), “Phượng hoàng”. Các bệ thờ vẽ trang trí các bức tranh: Phượng múa, long mã, rùa, cá chép. Các ban thờ: Thần, Hội đồng, Tả ban, Hữu ban đều làm bằng đá và trang trí hình con dơi, hoa lá. Ban thờ “Sơn Lâm chúa tướng” vẽ hình hổ vàng. Ban thờ “Lý Nhĩ tôn thần” vẽ hình voi.

Hàng năm, nhân dân thôn Quang Đông tổ chức lễ hội đình làng Quang Đông vào ngày 16, 17 tháng Giêng. Đây là lễ Kỳ yên (cầu an), diễn ra trong 2 ngày 1 đêm.  Ngoài ra, đình Quang Đông còn có các lễ cúng khác như: Tiết Thanh minh, vía Thành Hoàng (11/5 âm lịch), giỗ Tiền hiền (12/8 âm lịch) và Tết Nguyên đán.

Từ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của đình Quang Đông, ngày 18/11/2008 UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2847/QĐ-UBND xếp hạng di tích đình Quang Đông là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

Trần Thị Thanh Loan

[1] Tên gọi này được tìm thấy trong tư liệu Hán Nôm và các bản sắc phong được các vua triều Nguyễn ban tặng cho làng được thờ phụng tại đình Quang Đông.
[2] Xem thêm nội dung các sắc phong của hồ sơ này.

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
VĂN CHỈ NINH HÒA
Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH HỘI BÌNH
Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.