Hotline: (0258) 3813 758

VĂN CHỈ NINH HÒA

18/03/2018 00:00        
Đọc tin

Văn chỉ Ninh Hòa tọa lạc tại thôn Phước Lý, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

* Nguồn gốc di tích

Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.

Nho giáo/đạo Nho/đạo Khổng là hệ thống đạo đức, triết học chính trị - xã hội, triết lý giáo dục do Khổng Tử khởi xướng và được các môn đồ của Ngài phát triển với mục đích xây dựng xã hội thịnh trị. Nho giáo hình thành ở Trung Hoa cổ đại, ảnh hưởng lớn đến các nước ở châu Á trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, thời nhà Nguyễn rất xem trọng việc xây dựng các thiết chế tín ngưỡng thờ phụng và tri ân những người có công với đất nước, dân tộc. Vì vậy, ngay từ khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã cho xây dựng Văn miếu trên toàn quốc “Năm Gia Long năm thứ 2 (1803) có sắc chỉ của vua “Sai các dinh trấn đều lập Văn miếu, mỗi miếu đều đặt hai người điển hiệu, lễ sinh và miếu phu đều 30 người”[1]. Giống như nhiều Văn miếu trên cả nước, Văn chỉ Ninh Hòa cũng có những bước thăng trầm của lịch sử và tồn tại đến ngày nay.

Văn chỉ Ninh Hòa nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời, cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt cao trong các kỳ khoa bảng của huyện Tân Định[2].

* Sự hình thành Văn chỉ Ninh Hòa

Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802) cho dời lỵ sở dinh Bình Khang về thành Diên Khánh và đổi tên dinh là trấn Bình Hòa “Năm Gia Long thứ 2 (1803) Vua có chỉ dụ cho xây dựng Văn miếu trấn Bình Hòa tại xã Phú Lộc, huyện Hoa Châu, thuộc trấn Bình Hoà”[3] (nay thuộc khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh). Đây chính là tiền thân của di tích cấp quốc gia Văn miếu Diên Khánh tại thị trấn Diên Khánh ngày nay. Từ đó, Văn miếu Bình Khang ở Ninh Hòa trở thành Văn chỉ cấp huyện, nay là Văn chỉ Ninh Hòa.

Về niên đại, căn cứ vào tấm hoành phi “Ngưỡng di cao” treo ở tòa Nội điện với dòng lạc khoản “Tự Đức thập nhị niên ngũ nguyệt cát nhật tạo” [ngày tốt tháng 5 năm Tự Đức thứ 12 (1859) tạo dựng] là cứ liệu để đoán định năm xây dựng di tích.

Từ khi xây dựng đến nay, Văn chỉ Ninh Hòa đã trải qua những lần tôn tạo, tu bổ, cụ thể là vào các năm: 1884, 1997, 2001, 2002.


Mặt bằng tổng thể Văn chỉ Ninh Hòa

* Kiến trúc Văn chỉ Ninh Hòa:

Văn chỉ nằm trong khuôn viên có tổng diện tích 4.480m2. Từ ngoài vào trong, Văn chỉ Ninh Hòa có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, tiền đường, nội điện, nhà đông.

Kiến trúc Văn chỉ sử dụng kết cấu phức hợp gỗ - đá - đất nung: Móng đá, tường gạch nung, khung sườn gỗ, mái lợp ngói âm dương. Về tổng thể kiến trúc, Văn chỉ là một tòa nhà với tòa tiền đường ở trước, tòa nội điện ở phía sau và nhà đông dùng để tiếp khách ở bên trái của di tích. Về chi tiết kiến trúc, hệ thống chịu lực chính của Văn chỉ là 04 cột cái (đường kính 0,45m) và 12 cột quân (đường kính 0,39m). Vì kèo được liên kết với nhau bằng hệ ”chồng rường - giả thủ”, vì nóc kết cấu kiểu vì kèo. Nội điện có 04 mái, 02 mái trước, sau và 02 mái hồi, bờ nóc đắp trang trí “Lưỡng long chầu nhật”.

* Lễ hội và các hoạt động liên quan đến di tích

Hàng năm, Ban quản lý di tích đều tổ chức lễ Thánh đản (ngày sinh 27/8 âm lịch) và Thánh húy (ngày mất 18/4 âm lịch) của Đức Khổng Tử.

Theo thông lệ, sau nghi thức cúng truyền thống là đến phần trao kỷ niệm chương và chúc thọ cho những cụ trong Hội Tư khoa đạt tuổi 80 và 90. Tiếp sau đó, là lễ phát thưởng, trao học bổng “Khuyến học, khuyến tài” cho học sinh, sinh viên nghèo học giỏi của một số trường ở Ninh Hòa, nguồn kinh phí được Ban quản lý vận động từ các nhà hảo tâm, Hội khuyến học tỉnh Khánh Hòa và Hội khuyến học thị xã Ninh Hòa.

Ngày 06/11/2006, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 1888/QĐ-UBND xếp hạng Văn chỉ Ninh Hòa là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

Trần Thị Thanh Loan

[1] Đại Nam Thực Lục của Quốc Sử Quán triều Nguyễn.
[2] Huyện Tân Định lúc bấy giờ có ít nhất 08 vị cử nhân Nho học là : Cụ Nguyễn Vĩnh Trinh-người khai khoa (xã An Thạnh), cụ Nguyễn Văn Nhuận (xã An Ấp/Phong Ấp), cụ Trần Văn Chất (xã Thanh Châu), cụ Phạm Đăng Xuân (xã An Phụng/Nghi Phụng), cụ Trần Thành (xã An Ấp), cụ Trần Văn Thông (xã An Tập), cụ Cao Đệ (xã Mỹ Thạnh), cụ Phạm Tấn (xã An Phụng).
[3] Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển 11) của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 2
 

Tin khác

breaker
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH HỘI BÌNH
Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.
ĐÌNH PHÚ ĐA
Đình Phú Đa tọa lạc trong khuôn viên có diện tích là 1.225 m2, mặt tiền quay về hướng Nam. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, chính điện, miếu Tiền hiền, nhà tây, nhà đông, miếu Hậu Thổ, nhà bếp và giếng nước. Đình có kết cấu theo kiểu tam sơn với chính điện ở giữa được làm cao hơn, hai bên là miếu Tiền hiền và nhà tây (thờ cô hồn, âm linh, chiến sĩ) thấp hơn.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.