Hotline: (0258) 3813 758

MIẾU HỘI ĐỒNG

26/02/2018 00:00        
Đọc tin

Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.

Căn cứ vào sắc phong sớm nhất mà di tích còn lưu giữ vào triều vua Duy Tân năm thứ 3 (1909), ta có thể xác định niên đại khởi dựng của di tích là cuối thế kỷ XIX. Hiện nay, miếu Hội Đồng còn lưu giữ được 01 sắc phong của vua Khải Định năm thứ 9 (1924), phong cho Thiên Y A Na. Ba sắc phong còn lại đã bị rách gần hết, trong đó, 01 sắc phong niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 (1909).

Từ khi xây dựng đến nay, miếu Hội Đồng đã trải qua các lần tu bổ, tôn tạo vào các năm 1988, 2002 và 2007.

Miếu Hội Đồng thờ Thiên Y A Na, Công chúa Quý, Hoàng tử Trí, Thành Hoàng, Công chúa Hồng Nương, Tiền Hiền (Nguyễn Xuân Tịnh), Thổ Địa, Ngũ hành.

Miếu Hội Đồng nằm ở cuối tổ dân phố Phước Đa 2, trong khuôn viên có diện tích 3.768m2, mặt tiền của miếu theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong, miếu có bố cục mặt bằng tổng thể gồm: Nghi môn, án phong, miếu Thú Trung Vương, chính điện, nhà Tiền hiền.

Chính điện Miếu Hội Đồng 

 

Kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, tạo điểm nhấn cho công trình nằm ở kết cấu bộ khung gỗ và điêu khắc, trang trí trên chính điện. Trang trí trên tường là những bức tranh với các đề tài phong cảnh làng quê, gà, cá, tùng lộc, hổ, phượng, long mã …

Hằng năm, Miếu Hội Đồng tổ chức cúng theo lệ “Xuân Thu nhị kỳ”. Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 8/3 âm lịch. Đây là lễ vía Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Lễ Thu tế tổ chức vào tháng 8 âm lịch. Trong lễ hội, có hát bội và múa lân nhưng không thường xuyên mà tùy thuộc vào nhu cầu của nhân dân trong làng.

Ngày 18/11/2008, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2854/QĐ-UBND xếp hạng miếu Hội Đồng là Di tích kiến lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

 

Trần Thị Thanh Loan

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH THANH CHÂU
Đình Thanh Châu là nơi hoạt động của các cán bộ cách mạng như Trần Nhì, Nguyễn Tạo, Nguyễn Đức Nhuận; là nơi đặt thùng phiếu để cử tri của hai thôn Thanh Châu và Mỹ Chánh đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội vào ngày 06/01/1946. Ngoài ra, đình còn là địa điểm dạy học hưởng ứng phong trào “diệt giặc dốt” theo lời kêu gọi của Bác Hồ.
ĐÌNH VẠN THIỆN
Đình Vạn Thiện đã có từ lâu đời nhưng năm khởi dựng chính xác thì không ai còn nhớ rõ. Theo lời kể của các vị cao niên trong làng, đình có 01 sắc phong dưới triều Nguyễn ban tặng nhưng đã bị mất vào năm 1955. Cứ liệu khả tín nhất để đoán định niên đại di tích là căn cứ vào hoa văn chạm trổ trên cấu kiện gỗ và bức hoành phi treo ở chính điện có ghi “Duy Tân tam niên… khởi tạo”, là cơ sở để xác định đình được khởi dựng vào năm 1909.
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.