Hotline: (0258) 3813 758

CHÙA PHÁP HẢI

18/03/2018 00:00        
Đọc tin

Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.

Theo lời truyền khẩu của các bậc hào lão: Năm 1947, thực dân Pháp nghi ngài Thích Quảng Đức hoạt động cách mạng, nên cho máy bay thả bom phá hủy ngôi chùa, trong hai lần bị giặc Pháp đốt phá, lần nào ngôi chùa cũng bị cháy sạch. Nhưng có một điều hết sức lạ lùng khiến mọi người đều phải kinh ngạc đó là bức chân dung Đức Quan Thế Âm được tôn trí thờ phụng trong chùa lại không bị cháy. Đến năm 1957, Thích Quảng Đức từ trong miền Nam trở ra, thấy chùa tranh quá sơ sài nên đã vận động bà con Phật tử xây dựng lại chùa Pháp Hải. Lần này chùa được dời sang phía bên kia đường, cũng nằm trong khuôn viên đất do Phật tử Đồng Trực hiến cúng. Sau khi xây dựng xong chùa Pháp Hải, Bồ tát Thích Quảng Đức giao cho người anh cả của mình là Thiền sư Thị Cảnh làm Trụ trì.

Trong năm 1963, sau khi thân thể của Bồ tát Thích Quảng Đức được hỏa táng, một số linh cốt của Ngài đã đem về thờ tại Tổ đình Sắc tứ Thiên Tứ và chùa Pháp Hải – Ninh Hòa.

Chùa Pháp Hải thờ Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà, Quan Âm, Địa Tạng, Hộ Pháp, Tiêu Diện, Bồ tát Thích Quảng Đức…

Chùa Pháp Hải hiện còn bảo lưu được một số di vật, cổ vật: Đại hồng chung, Bảo chúng và bức ảnh Bồ tát.

Những năm xây dựng, trùng tu, tôn tạo chùa:
- Năm 1940, chùa được xây dựng tại thôn Ngọc Sơn.
- Năm 1947, chùa được dời đến thôn Lạc Bình.
- Năm 1957, chùa được dời đến vị trí hiên nay.
- Năm 1996 - nay, khởi công xây dựng Tam quan và Chính điện mới.

Từ ngoài vào trong, chùa Pháp Hải có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, Đài Quan Âm, chính điện, nhà tổ, nhà tăng, nhà khách.

Mặt bằng tổng thể chùa Pháp Hải 

Chùa Pháp Hải quay hướng Nam, chùa được xây dựng trong khuôn viên đất rộng với diện tích 6.092,0m2, mái lợp ngói tây, trên bờ nóc trang trí hoa văn “Lưỡng long chầu bánh xe luân hồi”. Chính điện có hệ cửa bằng gỗ, hai bên viết cặp câu đối bằng chữ Hán có chữ đầu ghép thành tên chùa:

Phiên âm

Pháp lực bất tư nghị hộ quãng vận từ tâm khai giác ngộ,
Hải hà đông cực bạt nguyện thi bảo phiệt độ mê tân.

Dịch nghĩa

Pháp lực khó nghĩa bàn quãng vận từ tâm khai đường giác,
Hải hà đông cực bạt nguyện đêm bè báu độ bến mê.

Hàng năm, chùa Pháp Hải được tổ chức lễ Phật Đản và lễ Vu lan vào ngày Rằm tháng Giêng và tháng Bảy âm lịch. Ngoài ra, Chùa Pháp Hải còn cúng lễ các ngày vía Quan âm (19/2 và 19/6 âm lịch), kỵ tổ khai sơn (17/12 âm lịch), vía Phật thành đạo (8/12 âm lịch), ngày giỗ Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân (19/4 âm lịch).

Chùa Pháp Hải là nơi thờ linh cốt của ngài Thích Quảng Đức. Sự hy sinh cao cả của Bồ tát Thích Quảng Đức đã tác động mạnh mẽ đến mọi tầng lớp nhân dân, Phật tử, Tăng ni… gây ảnh hưởng to lớn góp phần đưa Phật giáo Việt Nam đi đến đấu tranh thắng lợi trước sự đàn áp của chế độ Ngô Đình Diệm.

 Với tất cả ý nghĩa trên, năm 2009, chùa Pháp Hải được UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

 Bá Trung Toản

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 2
 

Tin khác

breaker
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
VĂN CHỈ NINH HÒA
Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH HỘI BÌNH
Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.
ĐÌNH PHÚ ĐA
Đình Phú Đa tọa lạc trong khuôn viên có diện tích là 1.225 m2, mặt tiền quay về hướng Nam. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, chính điện, miếu Tiền hiền, nhà tây, nhà đông, miếu Hậu Thổ, nhà bếp và giếng nước. Đình có kết cấu theo kiểu tam sơn với chính điện ở giữa được làm cao hơn, hai bên là miếu Tiền hiền và nhà tây (thờ cô hồn, âm linh, chiến sĩ) thấp hơn.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.