Hotline: (0258) 3813 758

CHÙA THIÊN ÂN

01/03/2018 00:00        
Đọc tin

Chùa Thiên Ân tọa lạc tại thôn Phước Thuận, xã Ninh Đông, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Tên gọi Thiên Ân tự do Trụ trì Thiên Phước xây dựng và đặt tên với ý nghĩa: Chữ “Thiên” có nghĩa là ý trời, chữ “Ân” còn có nghĩa là nhớ ơn, hai từ ghép lại thành Thiên Ân tự, tên gọi này lưu giữ cho tới ngày nay.

 

Chùa được hình thành từ năm 1802 - 1808. Tổ khai sơn chùa Thiên Ân là Thiên Phước thượng Chương hạ Chí, hiệu Bửu Tịnh - Thế danh là Huỳnh Văn Dự, sinh năm Ất Hợi (1755), nguyên quán ở làng Phú Vinh, phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất gia hành đạo tại quê nhà, sau vào phủ Tân Định, tỉnh Khánh Hòa, đến xã Phước Thuận, tổng Phước Khiêm xây dựng chùa Thiên Ân. Ngài thuộc thiền phái Lâm Tế đời thứ 38, hệ thứ 5 của tổ Minh Hải - Pháp Bảo. Ngài là một danh tăng được vua Minh Mạng mời về dự đại lễ siêu độ “Thủy lục Đạo tràng” tại kinh đô Huế (1825) và khi trở về được sắc phong “Giới đao độ điệp”. Ngài viên tịch vào ngày mùng 5 tháng 8 năm Bính Tuất (1826), thọ thế 71 tuổi.

Từ năm 1826 đến nay, chùa đã trải qua nhiều đời trụ trì. Trong đó, từ năm 1933 đến năm 1943, Hòa thượng Thích Quảng Đức trụ trì chùa Thiên Ân. Ngài có pháp danh Thị Thủy, tự Hành Pháp, hiệu Quảng Đức, thuộc Thiền phái Lâm Tế, đời thứ 42, dòng kệ Chúc Thánh. Hiện nay, Đại đức Thích Quảng Căn, tự Huệ Hải, hiệu Viên Như trụ trì chùa Thiên Ân.

Chùa Thiên Ân thờ Phật Thích Ca, Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Chuẩn Đề, Bồ tát Thích Quảng Đức…

Những năm chùa được xây dựng, trùng tu, tôn tạo:
- Năm 1826, đại trùng tu lần thứ nhất;
- Năm 1938, đại trùng tu lần thứ hai;
- Năm 1962, xây dựng lại chính điện trên nền cũ;
- Năm 1964, xây dựng nhà đông;
- Năm 2000, chính điện được xây dựng và tôn tạo.

Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng Nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.

Phía trước chính điện là tiền đường. Tiền đường có cổ lầu, trên bờ nóc trang trí đắp nổi “Lưỡng long chầu bánh xe pháp luân”, góc mái trang trí đắp nổi hình rồng, trên cổ lầu viết chữ Quốc ngữ “ Sắc tứ  Thiên Ân tự ” hai bên trang trí phong cảnh thiên nhiên.

Tiền đường có ba cửa, trên ngưỡng cửa chính có cuốn thư viết chữ Hán Nôm: “賜 敕寺  恩  天” (Sắc tứ chùa Thiên Ân). Ngưỡng cửa hai bên viết chữ Hán Nôm, bên trái: “輝 增 日 佛” (Phật Nhật Tăng Huy), bên phải: “轉 常 輪 法” (Pháp Luân Thường Chuyển); hai bên cửa viết câu đối bằng chữ Hán Nôm có hai chữ đầu ghép thành tên chùa:

Phiên âm:

Thiên tường hưng thịnh đạo tại thế năng hoằng, Tịnh viện thiên thu tăng củng cố,
Ân triêm phước thuận, quả do nhân nhi khởi, Thiền môn vạn cổ vĩnh trang nghiêm.

Dịch nghĩa:

Tốt lành, hưng thịnh, đạo ở đời rộng lớn, ngàn năm Tịnh viện thêm bền vững,
Ơn ban, phước thuận, quả do nhân mà ra, cửa Thiền muôn thuở mãi trang nghiêm.

Chính điện gồm ba tầng mái, kiến trúc kiểu Cổ lầu, mái dưới lợp ngói tây, hai tầng trên lợp ngói lưu li. Cổ lầu xây hình lục giác, mỗi tầng có sáu mái, trên đỉnh trang trí hoa văn hình búp sen.

Hai bên chính điện ngăn bởi vách tường là phòng lưu niệm và phòng tiếp khách. Phòng lưu niệm trưng bày những hình ảnh của Ngài Thích Quảng Đức và treo bức Hoành phi “興  重  宇  梵”  (Phạm vũ Trùng hưng), cùng Đại Hồng Chung có niên đại Khải Định năm thứ 4 (1919).         

Hàng năm, chùa Thiên Ân có những ngày lễ lớn như sau: Lễ Phật đản vào ngày Rằm tháng Tư và lễ Vu Lan vào ngày Rằm tháng Bảy âm lịch.

Những ngày kị tổ của chùa:
- Ngày kị tổ khai sơn Hòa Thượng Thiên Phước Bữu Tịnh (Ngày 5/8 âm lịch);
- Ngày kị tổ Hoằng Kim và thầy Đồng Thiện (Ngày 8/4 âm lịch);
- Ngày kị tổ Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân (Ngày 18/4 âm lịch);
- Ngày kị tổ Chơn truyền Pháp Thuận (Ngày 25/4 âm lịch);
- Ngày kị tổ Trừng Vinh Chơn Gia (Ngày 6/9 âm lịch);
- Ngày kị tổ Hòa Thượng Thích Thiên Phước (Ngày 14/11 âm lịch).

Chùa Thiên Ân trong kháng chiếc chống Pháp và Mỹ, là nơi che dấu, nuôi dưỡng và liên lạc của cán bộ chiến sĩ cách mạng hoạt động tại vùng bắc Ninh Hòa.

Ghi nhận những giá trị về lịch sử - văn hóa của chùa Thiên Ân, năm 2016 UBND Khánh Hòa xếp hạng Di tích cấp tỉnh.

                                                                                      Bá Trung Toản

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                   

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 1
 

Tin khác

breaker
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
VĂN CHỈ NINH HÒA
Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH HỘI BÌNH
Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.