Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH HỘI BÌNH

18/03/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành[1], phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.

Căn cứ vào đạo sắc phong sớm nhất mà đình còn lưu giữ là năm Thành Thái thứ 02 (1890) ban tặng cho đình Hội Bình, ta có thể đoán định niên đại khởi dựng của di tích khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Từ khi khởi dựng tới nay, đình Hội Bình đã trải qua hai lần tu bổ vào năm 1969 và 1993.

Hiện nay, đình Hội Bình còn lưu giữ 02 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng cho Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương, đó là:
- Sắc phong ngày 20 tháng 02 triều vua Thành Thái năm thứ 02 (1890);
- Sắc phong ngày 11 tháng 08 triều vua Duy Tân năm thứ 03 (1909).

Đình Hội Bình được dựng lên để thờ Thành hoàng làng, Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương, Tiền hiền, Hậu Thổ, Âm linh chiến sỹ.

Đình Hội Bình nằm ở đầu thôn, mặt tiền quay về hướng Nam, có diện tích 1.281m2. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như sau: Nghi môn, án phong, miếu Âm hồn, chính điện, nhà đông, nhà tây.

Kiến trúc tiêu biểu nhất và là nơi diễn ra các nghi lễ chính tập trung ở chính điện. Chính điện có kết cấu 02 bộ vì tạo thành 01 gian gồm 04 cột cái. Các cột quân và cột hiên không còn mà được thay thế bằng hệ thống tường bao chịu lực. Vì nóc kết cấu theo kiểu vì kèo. Hệ mái có kết cấu 02 mái trước và sau, lợp ngói tây (ngói mới). Bờ nóc đắp nổi trang trí “Lưỡng long chầu nguyệt”. Dải tường chắn bờ mái phía trước đắp nổi trang trí lân và phượng.

Hằng năm, đình Hội Bình tổ chức lễ hội vào ngày 09 và 10/3 (Âm lịch), diễn ra trong 02 ngày. Lễ hội đình làng Hội Bình thực sự là một ngày hội lớn của nhân dân địa phương, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tới tham dự.

Ngày 20/11/2009, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2994/QĐ-UBND xếp hạng Đình Hội Bình là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

       Trần Thị Thanh Loan

[1] Thông thường, đình làng thường lấy từ tên thôn để đặt cho ngôi đình. Ở đình Hội Bình, sở dĩ đình có tên là “Hội Bình” mà tọa lạc ở thôn “Hội Thành” do trước giải phóng xã Ninh Giang có nhiều thôn, trong đó có thôn Hội Bình và Hội Thành, sau năm 1975 sát nhập hai thôn trên lại và lấy tên là Hội Thành. Đình đã tồn tại trước 1890, với tên gọi Hội Bình và vẫn giữ nguyên tên gọi đến nay.

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 1
 

Tin khác

breaker
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
VĂN CHỈ NINH HÒA
Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH PHÚ ĐA
Đình Phú Đa tọa lạc trong khuôn viên có diện tích là 1.225 m2, mặt tiền quay về hướng Nam. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, chính điện, miếu Tiền hiền, nhà tây, nhà đông, miếu Hậu Thổ, nhà bếp và giếng nước. Đình có kết cấu theo kiểu tam sơn với chính điện ở giữa được làm cao hơn, hai bên là miếu Tiền hiền và nhà tây (thờ cô hồn, âm linh, chiến sĩ) thấp hơn.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.