Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH ĐÔNG HÀ

18/03/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Đông Hà tọa lạc tại tổ dân phố Đông Hà, phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Dựa vào 03 sắc phong dưới triều vua Tự Đức ban tặng cho các làng có tên chữ mà có một chữ kèm trước đó là chữ ĐÔNG: Đông Hải, Đông Hà, Đông Cát, Đông Hòa. Tuy nhiên, do quá trình thành lập làng Đông Hà (1852) muộn hơn so với làng Đông Hải (1831) nên hiện nay các sắc phong trên đang được lưu giữ tại đình Đông Hải. Dựa vào nội dung sắc phong sớm nhất hiện đang lưu giữ tại đình Đông Hải được vua Tự Đức năm thứ 5 (1852) ban tặng cho thôn Đông, có thể đoán định được niên đại tương đối của di tích vào cuối thế kỷ XVIII.

                                                                                                                                               Đình Đông Hà

Lúc mới thành lập, đình Đông Hà được làm bằng tranh tre, nứa lá, mái lợp tranh và có tên là đình Xóm Rớ[1] (thôn Đông Hải). Từ năm 1946-1949, thực dân Pháp chiếm đình làm đồn bốt. Đến năm 1952, quân Pháp rút quân khỏi làng Đông Hà, nhân dân dựng lại ngôi đình trên nền đất cũ (khuôn viên đình Đông Hà hiện nay). Một đơn nguyên kiến trúc hợp nhất thường thấy ở các đình làng biển là Lăng Ông Nam Hải. Người dân vùng biển rất tôn sùng cá voi, vì vậy toàn bộ tầm ảnh hưởng quan trọng của đời sống tín ngưỡng hướng ra biển được thể hiện ở sự sùng bái cá Ông, tín ngưỡng biển đặc biệt và khá phổ biến trên khắp vùng biển miền Trung.

Đình Đông Hà được dựng lên để thờ Thành Hoàng làng, Ông Nam Hải, Tiền hiền, Bà Thiên Y A Na, âm hồn.

Trải qua thời gian dài tồn tại, đình Đông Hà được tiến hành tu bổ vào các năm: 1946, 1952, 2004, 2009, 2010-2011.

Đình Đông Hà tọa lạc trong khuôn viên có tổng diện tích 989m2, mặt tiền quay về hướng Tây Nam. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục bao gồm các thành phần kiến trúc như sau: Nghi môn, án phong, võ ca, đại đình, nhà tây, nhà tiền hiền, Lăng Ông - Bà, miếu Âm hồn, nhà bếp. Trang trí, đắp nổi trên tường và hệ mái của đình Đông Hà giống như các đình khác ở Khánh Hòa đó là các tích lấy từ đề tài cầu cho mưa thuận hòa gió hòa, mùa mang bội thu, con người có sức khỏe, trường thịnh và phát triển. Phần kết cấu kiến trúc gỗ ở đình Đông Hà hiện nay còn giữ lại được 04 trụ cột chịu lực chính ở võ ca, bộ vì nóc kết cấu kiểu vì kèo ở nhà tiền hiền và nhà tây.

Hàng năm, cứ vào mùng 10/3 (Âm lịch), nhân dân làng Đông Hà tổ chức lễ hội đình làng Đông Hà. Lễ hội tổ chức trong 3 ngày 3 đêm, thời gian bắt đầu từ sáng mùng 9/3 (Âm lịch) đến đêm mùng 11/3 (Âm lịch).

Ngày 18/9/2015, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2595/QĐ-CT.UBND xếp hạng đình Đông Hà là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

Trần Thị Thanh Loan

[1] Trước năm 1852, Xóm Rớ thuộc thôn Đông Hải. Sau 1852, địa phương phân chia lại địa giới hành chính, Xóm Rớ thuộc thôn Đông Hà, dân làng lấy tên thôn để đặt tên cho ngôi đình là đình Đông Hà, tên gọi “Đông Hà” được giữ nguyên từ đó đến ngày nay.

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                     

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 1
 

Tin khác

breaker
CHÙA PHÁP HẢI
Chùa Pháp Hải tọa lạc tại thôn Lạc Bình, xã Ninh Thọ, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải do ngài Thích Quảng Đức đứng ra khai sáng vào năm 1940, ban đầu chùa tọa lạc tại thôn Ngọc Sơn (xã Ninh An). Đến năm 1946, chùa bị thực dân Pháp đốt phá. Cũng trong năm 1946, chùa phải dời về thôn Lạc Bình (xã Ninh Thọ) và được dựng lại trong khuôn viên đất của một Phật tử là ông Nguyễn Văn Chất - pháp danh Đồng Trực - phát tâm cúng hiến.
CHÙA KIM LONG
Chùa Kim Long được xây dựng trong khuôn viên có tổng diện tích là 4.190m2, mặt tiền quay về hướng Tây. Từ ngoài vào trong, chùa có bố cục mặt bằng tổng thể bao gồm các thành phần kiến trúc như: Tam quan, Đài Quan Âm Bồ Tát, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và cổng phụ.
VĂN CHỈ NINH HÒA
Văn miếu/Văn chỉ/Văn từ là danh xưng có cùng một chức năng là nơi tôn thờ Nho giáo, tuy nhiên, chỉ khác nhau về cấp bậc ở chữ kèm theo sau là “miếu”, “chỉ”, “từ”. Theo đó, Văn miếu thuộc cấp trung ương, tỉnh, trấn; Văn từ, chỉ thuộc cấp tổng, huyện, làng, xã.
ĐÌNH HIỆP THẠNH
Đình Hiệp Thạnh tọa lạc tại thôn Hiệp Thạnh, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1810, làng Hiệp Thạnh có tên gọi là Hương Thạnh xã (thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa), gồm có hai xứ là xứ Gò Đình và xứ Cây Me. Năm 1890, Hương Thạnh xã đổi thành Hiệp Thạnh xã, Tân Định huyện, Khánh Hòa tỉnh.
ĐÌNH HỘI BÌNH
Đình Hội Bình tọa lạc tại Tổ dân phố Hội Thành, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Bình” mang ý nghĩa là nơi hội tụ sự bình an.
CHÙA THIÊN ÂN
Chùa Thiên Ân nằm về phía Tây Bắc của làng Phước Thuận, dọc tả ngạn sông Chò; chùa quay hướng nam, xây dựng trong khuôn viên đất với tổng diện tích 4.362,6 m2. Từ ngoài vào trong, chùa có mặt bằng tổng thể như sau: Tam quan, sân chùa, Đài Quan Âm, Bia tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức, chính điện, nhà tổ, nhà đông, nhà trù.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Miếu Hội Đồng tọa lạc tại tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi của di tích xuất phát từ việc trước kia làng có 7 ngôi miếu nhỏ sau đó tập hợp lại thành một ngôi miếu thờ chung cho cả làng, gọi là “hội đồng”.
ĐÌNH MỸ TRẠCH
Đình Mỹ Trạch được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1810, làng Mỹ Trạch có tên gọi là An Phú xã (xứ Gò Duối, Gò Găng, Bồ Đề, Gò Phước), sau đổi thành An Thạnh Đông xã (xứ Đồng Núi), thuộc tổng Hạ, huyện Tân Định, phủ Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĂN ĐỊNH
Đình Văn Định tọa lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa. Đình được hình thành khoảng đầu thế kỷ XIX, lúc mới thành lập, đình có tên “Đình làng Văn Hòa”; đến đời vua Tự Đức thứ 33 (năm 1880), làng có tên là Văn Định nên tên đình được gọi là “Đình làng Văn Định”; đến đời vua Thành Thái thứ 2 (1890), gọi là làng/đình “Văn Định Hạ” và từ sau năm 1975 đến nay gọi là làng/đình Văn Định.
ĐÌNH CHẤP LỄ
Đình Chấp Lễ được xây dựng trong khu đất cao ráo, thoáng đảng, có tổng diện tích 1.140 m2. Mặt tiền của đình Chấp Lễ quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Án phong, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chính điện, nhà đông, miếu Thiên Y, miếu Nghĩa từ.