(Miếu thờ Hỏa tinh thần nữ, trong khuôn viên đình Mỹ Trạch - Ninh Hòa, Ảnh: Đỗ Văn Khoái)
Trong tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần ở Việt Nam nói chung thì Ngũ Hành thần nữ mà dân gian thường gọi là mẹ Ngũ hành hay bà Ngũ hành được thờ tự phổ biến ở các làng xã đặc biệt là tại các tỉnh ở Nam Trung bộ và Nam bộ. Đối với vùng đất Khánh Hòa, tục thờ này vẫn đang được bảo lưu và thực hành rộng rãi. Vậy tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa biểu hiện cụ thể ra sao? Các triều đại quy định điển lễ và ban tặng sắc phong đối với Ngũ Hành thần nữ như thế nào?... đó là những vấn đề cần tìm hiểu mà bài viết này mong muốn đề cập ngõ hầu góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tục thờ nữ thần nói riêng và tín ngưỡng thờ mẫu nói chung.
Trước hết cần tìm hiểu một cách giản lược về khái niệm về Ngũ hành 五 行. Ngũ hành theo quan niệm triết học của người Trung Quốc cổ đại để chỉ năm hành (đi, sự vận động) cơ bản của vũ trụ bao gồm hành Thủy 水 (biểu trưng cho yếu tố nước, chất lỏng), hành Hỏa 火 (biểu trưng cho yếu tố lửa), hành Mộc 木 (biểu trưng cho yếu tố cây, gỗ), hành Kim 金 (biểu trưng cho yếu tố kim loại), hành Thổ 土 (biểu trưng cho yếu tố đất đai, thổ nhưỡng). Các hành này tương sinh tương khắc, chế hóa lẫn nhau tuân theo những quy luật nhất định. Cũng từ quy luật lý thuyết đó, Ngũ hành có ứng ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như trong Y học, ẩm thực, âm nhạc, phương vị, màu sắc, thiên văn, thời gian…
Xuất phát từ Trung Quốc, dần dần thuyết Ngũ hành được tín ngưỡng hóa, thành sự thờ phụng trong quan niệm “vạn vật hữu linh” rất phổ biến ở nhiều dân tộc Á Đông cho đến ngày nay trong đó có Việt Nam. Đặc biệt nước ta có truyền thống từ một nước nông nghiệp trồng lúa nước nên tín ngưỡng thờ các nhiên thần tức các thần trong tự nhiên như thần đất, thần nước, thần cây, thần lửa, và các thần có nguồn gốc từ động vật như chim, thú…. rất được coi trọng.
Xu hướng nữ hóa các vị thần đặc biệt là các nhiên thần như trường hợp năm bà ngũ hành (Ngũ hành thần nữ), các thần có nguồn gốc từ động vật như loài chim (Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ)1….cho thấy sự phong phú và đa dạng trong tín ngưỡng thờ nữ thần ở Khánh Hòa ngoài các nữ thần có nguồn gốc từ thiên thần (Thiên Y A Na) và các nhân thần là những thần có nguồn gốc từ con người cụ thể.
(Tượng năm bà Ngũ hành, tại miếu Ngũ hành - Am Chúa, Diên Khánh, Ảnh: Đỗ Văn Khoái)
Di tích để thờ bà Ngũ hành thường mang tên Miếu Ngũ hành, Miếu Bà Ngũ hành hoặc có nơi gọi giản lược là Miếu Bà. Cũng nhiều trường hợp miếu thờ bà Ngũ hành mang tên miếu cùng với địa danh nơi đó, nhưng qua tìm hiểu cấu trúc thờ tự và thần chủ được thờ thì biết đó là miếu thờ bà Ngũ hành. Ở Khánh Hòa có nhiều miếu thờ Ngũ hành và dạng thức thờ tự. Nhiều nơi ở địa bàn Diên Khánh, Nha Trang, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Cam Lâm, Cam Ranh có miếu thờ riêng như các ngôi miếu của các vị thần khác thường thấy. Có khi bà Ngũ Hành được phối thờ trang trọng trong các am thờ nhỏ hoặc các ban thờ riêng ở các miếu thờ hoặc các di tích như đình, chùa, lăng… do sự bài trí của người dân địa phương trong từng di tích cụ thể.
Trong các ban thờ Ngũ hành một số nơi như di tích Am Chúa, di tích Miếu Bà Đại Điền Đông (Diên Khánh) có bài trí tượng năm bà rất đẹp với những màu sắc trang phục riêng cho từng bà. Căn cứ vào phương vị và màu sắc trong thuyết Ngũ hành thì trang phục áo bào màu vàng là bà Thổ, màu đỏ là bà Hỏa, màu xanh là bà Mộc, màu đen là bà Thủy, màu trắng là của bà Kim, trong đó tượng bà Thổ thường được đặt ở chính giữa năm bà vì mệnh thổ ở Trung ương, cũng như vậy tùy vào mệnh của mỗi bà Ngũ hành ứng với mỗi phương mà xếp đặt vị trí tượng cho tương ứng như: mệnh Kim ở phương Tây, mệnh mộc ở phương Đông, mệnh Thủy phương Bắc, mệnh Hỏa phương Nam. Đặc biệt trong một số di tích như am thờ Ngũ hành trong khuôn viên Miếu Bà Đại Điền Đông (Diên Khánh) vừa có tượng năm bà lại vừa có bài vị chữ Hán đề tự hiệu đích danh năm bà. Các miếu hoặc ban thờ không có tượng thì thường có bài vị bằng gỗ khắc chữ Hán đề danh hiệu của năm bà hoặc cũng có thể được viết bằng mực tàu lên trên tường nơi thờ bà Ngũ hành với tự hiệu Ngũ hành thần nữ; Ngũ hành chi vị hoặc Ngũ hành….
Khảo sát các tư liệu Sắc phong, bài vị, văn tế tại các di tích thì tên gọi chung của năm bà thường là Ngũ hành thần nữ 五 行 神 女, Ngũ hành nương nương 五 行 娘 娘, có di tích trên sắc phong đề là Ngũ hành tiên nương 五 行 僊 娘. Tên hiệu cụ thể của từng bà cũng không đồng nhất ở các di tích. Có khi là Kim đức thánh phi 金 德 聖 妃, Mộc đức thánh phi 木 德 聖 妃 , Thủy đức thánh phi 水德 聖 妃 , Hỏa đức thánh phi 火 德 聖 妃 , Thổ đức thánh phi 土 德 聖 妃, cũng có lúc là Hỏa tinh thần nữ 火 晶 神 女 , Thủy tinh thần nữ 水 晶 神 女 như ở sắc phong miếu Tam Tòa (Diên Khánh), lại có trường hợp là Chủ thiết/Chúa sắt thần nữ 主 鐵 神 女 tại Miếu Hội Đồng2 (Diên Khánh).
(Sắc phong Ngũ hành thần nữ, Miếu ấp Bạch Qua - Diên Khánh, Ảnh: Đỗ Văn Khoái)
Điều đặc biệt là Ngũ hành thần nữ đã được triều Nguyễn liệt vào tự điển và ban tặng sắc phong, đây là minh chứng quan trọng thể hiện tính chính thống quan phương của triều đình cho phép xã dân được thờ tự và công nhận bà Ngũ hành xếp vào hàng thần như những vị thần khác trong bách thần theo quan niệm của người xưa.
Sắc phong cho bà Ngũ hành cũng tồn tại hai dạng là phong chung và phong riêng tùy thuộc vào việc thờ ở mỗi làng xã. Qua việc thờ tự ở các di tích cho thấy, thường các di tích thờ cả năm bà Ngũ hành, có di tích thờ một bà trong năm bà như Miếu Bà Hỏa thờ bà Hỏa (Vĩnh Ngọc, Nha Trang), Đình Khánh Thành (Cam Lâm) có sắc thờ Kim tinh thần nữ. Cũng có di tích thờ hai bà trong năm bà như trường hợp Miếu Tam Tòa (Diên Khánh) có sắc phong thờ bà Thủy tinh thần nữ và Hỏa tinh thần nữ.
Như vậy rõ ràng việc tôn thờ một, hai hoặc năm bà trong Ngũ hành biểu tượng cho những yếu tố vật chất là đất đai, nước, kim loại, cây gỗ, củi lửa được người xưa tiếp nhận phụ thuộc vào đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và tập quán sinh hoạt của người dân trong từng vùng. Theo đó, nơi nào vượng hành gì thì thường thờ vị thần của hành đó. Ví như vùng gần sông suối thường thờ bà Thủy, nơi nào nhiều đất đai vườn ruộng thường thờ bà Thổ, nơi nào có khí hậu khô nóng thờ bà Hỏa, miền rừng núi thờ bà Mộc hay mẫu Thượng Ngàn…
Các sắc phong chung cho Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa có niên đại muộn hơn các vị thần khác. Sắc phong chung cho Ngũ hành được tìm thấy sớm nhất vào năm Duy Tân thứ 5 (1911), hiện có ở nhiều di tích, như miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh), đình Phong Ấp (Ninh Hòa). Sắc phong riêng cho từng vị trong năm vị thì Chủ thiết/Chúa sắt thần nữ (tức là bà Kim) có sắc phong sớm nhất là vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) tại Miếu Hội Đồng (Diên Khánh), còn lại đa số các sắc phong chung cho Ngũ hành thần nữ có niên đại vào năm Khải Định thứ 2 (1917) và năm Khải Định thứ 9 (1924).
Mỹ tự3 được phong qua các đời đối với Ngũ hành thần nữ là Tán hóa Mặc vận Thuận thành Hòa nhu Tư nguyên Trang huy Dực bảo trung hưng 贊 化 默 運 順 成 和 柔 資 元莊 徽 翊 保 中 興, và thứ hạng thần cao nhất được phong là thượng đẳng thần上 等 神 (xếp vào hàng thần bậc thượng)4
Đối với các di tích có sắc phong riêng cho từng vị trong năm vị thì mỹ tự được phong của mỗi bà cũng có nét riêng và thứ hạng thì chỉ lên đến hàng thần bậc trung (trung đẳng thần) trong ba hạng Thượng – Trung – Hạ. Như ở Đình Khánh Thành (Cam Lâm), sắc phong cho Kim tinh thần nữ vào năm Khải Định thứ 2 (1917) phong mỹ tự và thứ hạng là Trinh uyển Dực bảo trung hưng Hạ đẳng thần貞 婉 翊 保 中 興 下 等 神, năm Khải Định thứ 9 (1924) phong thêm mỹ tự Trai tĩnh 齋 靜 và xếp hạng là trung đẳng thần 中 等 神.
(Khám thờ Ngũ Hành và bài vị, miếu Cổ Chi - Diên Khánh, ảnh: Đỗ Văn Khoái)
Nghi thức cúng tế Ngũ hành thần nữ cũng có nét tương đồng như các vị nữ thần hay mẫu thần khác trong vùng, tùy theo truyền thống phong tục mỗi địa phương mà quy định ngày vía và lễ phẩm phù hợp. Thường người dân hay tổ chức lễ vía bà vào tháng ba theo quan niệm cổ truyền tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Trong các văn cúng cầu an, cúng xuân cúng thu tại các di tích, thường thấy danh hiệu của bà Ngũ hành xuất hiện cùng với nhiều tên các vị thần khác trong thôn xã. Nhân dân các nơi tôn thờ Ngũ hành thần nữ và coi bà như thần mẹ có nhiệm vụ chở che và phò giúp họ trong lao động sản xuất được mùa màng tốt tươi, nhân khang vật thịnh. Đó cũng là nét đẹp tâm linh trong văn hóa tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần vốn đã trở thành mỹ tục của một vùng đất có bề dày truyền thống./.
Đỗ Văn Khoái
Tư liệu tham khảo:
1. Hồ sơ khoa học di tích: Đình Mỹ Trạch, Đình Phong Ấp (Ninh Hòa).
2. Hồ sơ khoa học di tích: Miếu Tam Tòa, Miếu Bà Đại Điền Đông, Am Chúa (Diên Khánh).
3. Sắc phong các di tích: Miếu Hội Đồng (Diên Khánh), Đình Khánh Thành (Cam Lâm), Miếu Tam Tòa, Miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh)…
1. Ở Đình Hội Xương (Diên Khánh) hiện có miếu riêng thờ bà Phấn Nhĩ Quỷ Vương và có sắc phong cho bà. Thần hiệu của bà qua tư liệu sắc phong tại miếu là Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ 奮 耳 鬼 王 神 女.
2. Miếu Hội Đồng: Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, phần viết về tỉnh Khánh Hòa, mục Đền Miếu có ghi: Miếu Hội Đồng ở xã Phú Lộc, huyện Phước Điền thờ các vị thần trong bản cảnh, dựng từ năm Gia Long thứ 15, lợp bằng tranh; năm Tự Đức thứ 2 tu bổ lợp ngói. Hiện miếu không còn nhưng còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong phong cho 11 vị thần trong bản cảnh trong đó có 03 sắc phong cho Chủ thiết/chúa sắt thần nữ 主 鐵 神 女 .
3. Mỹ tự: là những từ có ý nghĩa cao đẹp dùng để phong cho các vị thần, thường thấy trong sắc phong. Tùy thuộc vào công trạng, đức nghiệp của từng vị thần mà triều đình ban cho mỹ tự phù hợp. Ví dụ như mý tự phong cho Kim tinh thần nữ là Trinh uyển (chính đính, nhún thuận) Trai tĩnh (trai giới, trong sạch) Dực bảo trung hưng (có công giúp nước trong sự nghiệp trung hưng). Mỹ tự phong cho thần Thành hoàng ở Khánh Hòa thường là Quảng hậu (sâu dày) Chính trực (ngay thẳng) Hựu thiện (phò thiện) Đôn ngưng (lắng đọng).
4. Tư liệu: sắc phong Ngũ hành thần nữ tại Miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh), Đình Phong Ấp (Ninh Hòa).