Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH LÀNG KHÁNH HÒA – NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐỊA PHƯƠNG

26/10/2023 00:00        
Đọc tin

Dẫn nhập

Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, để phát triển du lịch bền vững cần có sự tương tác giữa di sản với các yếu tố đặc sắc khác của địa phương cũng như kết nối các di sản vùng ngoại vi và các vùng trung tâm du lịch lớn. Đó là trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhất là ngành có liên quan nhiều đến hoạt động du lịch như bảo tàng, bảo tồn di sản văn hóa, lịch sử. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trước hết phải có nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí, vai trò của ngành đối với hoạt động du lịch của địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung.

Hình ảnh “Cây đa-giếng/bến nước-sân/mái đình” là biểu tượng kết tinh tuyệt vời của làng quê Việt Nam và chỉ khi có mái đình thì làng mới được gọi là làng đúng nghĩa của nó, điều đó đã được nhà văn Sơn Nam khẳng định: “Có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ. Bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, một dạng lưu dân tập thể”. Vì lẽ đó, trên bước đường Nam tiến của mình, cùng với việc khai hoang, lập làng thì người Việt còn tạo dựng ngôi đình. Danh xưng “đình” xuất hiện phổ biến ở Việt Nam trong thế kỷ III, lúc này đình chỉ là quán để nghỉ chân. Trải qua nhiều giai đoạn của lịch sử, đình đã dần thay đổi chức năng: Thời Đinh, đình là nơi sứ thần nghỉ chân trước khi vào chầu vua ở cố đô Hoa Lư. Thời Trần, đình là trạm nghỉ chân. Thời Lê, đình làng phát triển hơn, nhiều người bỏ tiền dựng đình, sang thời Lê sơ đình là nơi thờ Thành hoàng và hội họp của dân làng, chức năng này bắt đầu định hình vào thời Mạc(1).

Tính đến cuối năm 2021, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa có khoảng 248 ngôi đình, trong đó có 124 đình làng được xếp hạng là di tích cấp tỉnh, 01 di tích[1] nằm trong danh mục kiểm kê của tỉnh và 01 di tích được xếp hạng cấp quốc gia là đình Phú Cang (xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh)(2). Đây chính là địa điểm hấp dẫn đối với các nhà làm phim thực hiện các cảnh quay về làng quê Khánh Hòa ở những năm đầu của thế kỷ trước, hay những thước phim tư liệu về kiến trúc cổ, lịch sử - văn hóa của một vùng đất. Chính vì thế, nếu biết cách quản lý và khai thác thì ngôi đình là một trong những địa chỉ tham quan du lịch hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước khi đến Khánh Hòa.

1. Các giá trị lịch sử - văn hóa tại đình làng

So với Hà Nội hay Huế thì di tích lịch sử - văn hóa ở Khánh Hòa không nhiều, niên đại muộn, đặc trưng kiến trúc - trang trí thể hiện sự giao lưu văn hóa đậm nét.

Đình làng gắn liền với quá trình xác lập địa lý hành chính vùng đất Khánh Hòa qua các thời kỳ lịch sử, hay nói cách khác ngôi đình phản ánh quá trình hình thành và phát triển của làng xã. Tài liệu ghi chép, thế kỷ XVII người Việt ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, các tỉnh Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Quảng, Quảng Nam, Quảng Ngãi), Nghệ An, Thanh Hóa theo bước chân chúa Nguyễn vào vùng đất Khánh Hòa mở đất, lập làng. Họ xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau trong xã hội như: Người giàu chiêu mộ người nghèo theo chính sách của chúa Nguyễn, người bị tù tội, người bị lưu đày, trốn thuế hoặc những người trốn tránh binh dịch trong chiến tranh Trịnh – Nguyễn. Công cuộc khai hoang lập làng được xúc tiến mạnh mẽ kể từ khi chiến tranh Trịnh –Nguyễn và chấm dứt vào cuối thế kỷ XVIII(3).

Hình 1. Đình Đại Điền Tây (xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh)

Với quan niệm “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá” nên sau khi công cuộc khai hoang lập làng trên vùng đất mới dần đi vào ổn định, cư dân người Việt tiến hành tạo lập đình làng để cầu mong Thần thánh phù hộ độ trì cho dân làng sức khỏe, an tâm về mặt tâm lý để vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Trong môi trường văn hóa làng xã xưa, ngoài chức năng tín ngưỡng, đình còn là nơi sinh hoạt văn hóa và là cơ quan hành chính chung của làng. Không những thế, đình còn là nơi chứng kiến nhiều trận chiến ác liệt, là trạm xá, nơi dạy bình dân học vụ, hầm bí mật, nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

* Vị trí tọa lạc: Ở tỉnh Khánh Hòa, hầu như làng nào cũng có đình và đa số đều được công nhận di tích cấp tỉnh. Theo quan niệm truyền thống, xây dựng đình làng phải chọn thế đất đẹp, ngày lành, giờ tốt để thần linh nghe thấu những tâm tư tình cảm của dân làng để phù hộ cho dân làng có cuộc sống bình an, no đủ. Thế đất đẹp là nơi phải thu giữ khí thiêng của trời đất, thường có những đặc điểm sau: đất cao, tươi nhuận, có dòng chảy/ao hồ trước mặt(4). Đình Khánh Hòa thường tọa lạc ở đầu làng, trên đồi, gò, bãi bên quốc lộ, hương lộ, bến đò; mặt tiền quay về hướng biển hoặc sông (yếu tố minh đường) và phía sau thường tựa lưng vào núi (yếu tố hậu chẩm) theo đúng luật phong thủy “tiền thủy hậu sơn”. Trong khuôn viên đình còn có những cây cổ thụ, giếng nước và một khoảng sân rộng để dân làng tụ họp vui chơi trong những ngày hội đình.

* Niên đại: Đình Khánh Hòa có niên đại sớm nhất vào cuối thế kỷ XVII, được xây dựng bởi lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp. Ban đầu, đình chỉ là gian nhà lá đơn sơ và tên đình được đặt theo tên gọi của làng. Sau một thời gian tồn tại cùng với sự khắc nghiệt của thời tiết và chiến tranh, đình xuống cấp, dân làng tiến hành tu bổ đình khang trang hơn tại vị trí tọa lạc hoặc di dời đến vị trí khác (do vị trí cũ không phù hợp với phong thủy, dân làng thường mất mùa, đau bệnh, học sinh thi không đỗ đạt...).

Trong tâm thức của dân làng, Thần Thành Hoàng là biểu tượng quyền lực tinh thần tối cao của làng, vị thần quyền năng cai quản đất đai, quy dân, lập làng và bảo vệ dân làng. Vì vậy, cư dân Khánh Hòa nói riêng và Việt Nam nói chung thờ cúng Thần Thành Hoàng như thờ cúng tổ tiên, Nguyễn Duy Hinh cũng đã khẳng định: “Thành Hoàng Việt Nam là thần làng, là tổ tiên làng chứ không phải là thần bảo hộ thành trì mang tính chất tướng lĩnh tinh thần của vua quan phong kiến ẩn nấp trong những bức tường thành với hào lũy bao quanh(5). Ngoài ra, đình còn thờ các vị thần khác như: Thần Cao Các, Thần Nông, Thiên Y A Na, Thái Giám Bạch Mã, Ngũ Hành, Thần Nam Hải, Tiền hiền-Hậu hiền, Sơn Lâm chúa tướng, Âm hồn-Cô hồn, Tổ sư ngành nghề thủ công(a), những người có công lớn(b).

* Kiến trúc: Bình đồ kiến trúc và lễ hội đình làng ở các làng tại Khánh Hòa có sự tương đồng nhau. Kiến trúc đình ở Khánh Hòa đơn giản, nhẹ nhàng, không có những chạm trổ tinh xảo, không to lớn, uy nghi như một số đình ở miền Bắc, hay ở vùng Thừa Thiên-Huế. Ban đầu, đình được làm bằng vách đất, mái lợp tranh. Về sau, đời sống kinh tế của người dân phát triển, nhu cầu tâm linh ngày càng cao, đình được cải tạo thành những loại vật liệu bền vững hơn: tường gạch hoặc đá ong/san hô, mái lợp ngói âm dương, kết cấu chịu lực đỡ hệ mái là những cột gỗ quý (Sao, gõ, cam xe,...).

Kiến trúc mặt bằng tổng thể đình có dạng kiểu chữ: Nhất (), Nhị (), Đinh () với bố cục các đơn nguyên kiến trúc như sau: Cổng đình/Nghi môn, Án phong, sân đình, cột cờ, miếu thờ, Võ ca, Tiền tế/Bái đường, Chính điện, miếu Tiền hiền-Hậu hiền, miếu Thiên Y, nhà đông, nhà tây, nhà khách, nhà bếp, giếng nước…

Chính điện là nơi tập trung những nét điêu khắc, chạm trổ, hội họa cũng như bài trí các nghi trượng, ban thờ nổi bật nhất trong các đơn nguyên kiến trúc tại đình. Các chủ đề được chạm khắc chính ở công trình là “Tứ linh”, “Tứ quý”, những bức tranh có hình động thực vật đi đôi với nhau hòa quyện trong cảnh sắc thiên nhiên đất trời như: mai-điểu, mẫu đơn-trĩ, sen-vịt (liên áp), tùng-lộc, tùng-hạc...mang ý nghĩa phú quý, trường thọ, hạnh phúc, quân tử, thanh bạch. Hay hình ảnh “Cá hóa long” tượng trưng cho sự dư giả, giàu có và sung túc, hoặc hình ảnh “Lưỡng long tranh châu” là biểu tượng cho quyền uy tuyệt đối của đấng Thiên tử nhằm hướng đến khát vọng về cuộc sống ấm no, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

* Hiện vật: Sắc phong là cổ vật có giá trị và quan trọng nhất của đình bởi nó thể hiện được địa danh hành chính ở thời điểm cụ thể, mỹ tự, công trạng của vị thần. Sắc phong được các vua triều Nguyễn ban tặng cho Thần Thành Hoàng ở Khánh Hòa có phẩm trật cao nhất là Trung đẳng thần với mỹ tự “Quảng Hậu Chánh Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Bản Cảnh Thành Hoàng Chi Thần(6). Thần Thành Hoàng ở Khánh Hòa là những vị không có tên tuổi, không có thần tích, thần phả cụ thể mà chỉ mang ý niệm chung là thần Thành Hoàng của vùng đất này. Theo thống kê của Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa, trên địa bàn toàn tỉnh có khoảng 1.000 sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng, trong đó 618 sắc phong của 125 đình được xếp hạng(7).

Hoành phi, câu đối ở đình Khánh Hòa mang đậm giá trị lịch sử-văn hóa được chế tác trên nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, vải, bêtông (cột hoặc tường), viết bằng chữ Hán, một số câu đối, hoành phi được khảm ốc xà cừ. Đây là những hiện vật vừa chứa đựng thông tin về niên đại khởi dựng, năm tu bổ vừa ca ngợi công đức của vị thần, thể hiện khát vọng quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đồng thời còn truyền tải cho thế hệ sau triết lý nhân văn sâu sắc, hướng con người đến các giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Câu đối mở đầu ở đình thường ca ngợi danh xưng của đình hay địa danh đình tọa lạc, thể hiện nét đẹp trong lối chơi chữ của người xưa(c).

* Lễ hội: Hằng năm đình Khánh Hòa tổ chức lễ hội vào dịp “Xuân Thu nhị kỳ”, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân ngày nay một số đình chỉ cúng một lần trong năm gọi là “Xuân Thu hợp nhất”. Lễ hội được tổ chức lớn hay nhỏ tùy thuộc vào nhu cầu và kinh phí đóng góp của bà con dân làng. Lệ thường “Tam niên đáo lệ” (có hát Bội), diễn ra trong 3 ngày 2 đêm. Lễ vật cúng thần là heo sống (nguyên con), heo quay, gà luộc, hoa trái, nhang đèn...

Lễ hội đình làng gồm hai phần là LễHội, có mối quan hệ đan xen, hòa quyện vào nhau. Phần lễ diễn ra ở nơi trang nghiêm (Chính điện), đối tượng tham gia là những bậc cao niên(d) thay mặt dân làng trình lên thần linh những ước vọng của họ thông qua các nghi thức tín ngưỡng. Phần hội tổ chức ở “không gian mở” rộng lớn hơn cho toàn thể cộng đồng trong và ngoài làng tham dự nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí của con người thông qua các trò chơi dân gian thể hiện sự khéo léo, khỏe mạnh, ý thức về mỹ tục, tài năng văn hóa, nghệ thuật và cao hơn hết là thể hiện tinh thần đồng loại, cố kết cá nhân vào cộng đồng.

Trong cuộc sống với đầy rẫy sự cạnh tranh và khốc liệt, con người luôn phải đối mặt với những hiểm nguy rình rập, bất trắc. B.Malinowski khi nghiên cứu về việc đánh bắt của người dân trên hòn đảo Trobriand đã chứng minh rằng dù khoa học có tiến bộ đến đâu cũng không thể thay thế được ma thuật và khi đối mặt với hiểm nguy nơi biển cả mênh mông, con người hướng đến sự trợ giúp của đối tượng siêu nhiên, vì thế ở đâu có bất trắc ở đó có bùa chú, cúng kiếng(8). Với quan niệm “thần linh có thể giúp cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, giúp cho cuộc sống của người Việt ổn định, thịnh vượng(9), và đình ra đời trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, chỗ dựa tinh thần, là nơi người dân gửi gắm niềm tin và có thêm sức mạnh vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống.

2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.

Sau ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa đầy 3 tháng, 23/11/1945 Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 65/SL ấn định nhiệm vụ của Đông phương Bác cổ học viện về việc bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Năm 1957, Thủ tướng Chính phủ đã công bố Nghị định 519/TTg xác định rõ đối tượng và những vấn đề cơ bản trong công tác Bảo tồn-Bảo tàng cũng như việc quản lý các di tích. Để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, 4/4/1984, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh số 14LCT/HĐNN về Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh.

Sự hoàn thiện dần về luật pháp đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa được bắt đầu từ Hiến pháp năm 1992, quy định trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy Di sản văn hóa dân tộc.

Năm 2001, tại cuộc họp thứ 9 khóa X Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Di sản Văn hóa với nội dung cốt lõi “Di sản Văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với 10 nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ thứ tư nêu rõ bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa(10).

Có thể nói, không có làng xã với các lễ hội, phong tục...thì không có văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, để lễ hội trở thành hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa làng xã cần quán triệt tinh thần về việc tổ chức lễ hội tại điều 25, chương III của Luật Di sản văn hóa: “Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống, bài trừ các thủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải theo quy định của pháp luật(11).

Như vậy, bảo tồn và khai thác di sản là hai mặt luôn đi song song và có quan hệ biện chứng với nhau. Nếu chỉ bảo tồn một cách đơn thuần thì sẽ lãng phí nguồn tài nguồn, hạn chế việc phát huy giá trị văn hóa, không làm cho di sản “sống” trong lòng công chúng và không tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo việc làm cho lao động địa phương. Ngược lại, nếu chỉ khai thác mà không bảo tồn thì sẽ hủy hoại di tích, các giá trị văn hóa ngày càng xuống cấp, mai một, hủy hoại môi trường và gây ra những hậu quả nặng nề khác cho xã hội.

3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đình làng Khánh Hòa trong phát triển du lịch tại địa phương

Bên cạnh giá trị tâm linh, lịch sử-văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật thì đình còn mang trong mình nhiều tiềm năng cho việc phát triển du lịch. Đối với các di tích đã xếp hạng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, đã có bản đồ di tích dưới góc độ di sản. Đây là điều kiện giúp cho việc quản lý và chỉ dẫn đường đến di tích một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Hình 2. Nghi môn đình Lương Sơn (xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang)

Cho đến nay, vẫn chưa có con số thống kê cụ thể về số lượng du khách đến tham quan đình vào ngày thường và vào dịp lễ hội. Lễ hội đình được tổ chức bởi sự sắp xếp của Ban Tế tự và phục vụ cho mục đích tín ngưỡng là chính, chưa có sự quan tâm của các cấp, các ngành. Với  lợi thế về du lịch biển đảo, hiện nay, du khách đến Khánh Hòa chủ yếu tham quan các tuyến du lịch biển đảo, hệ thống các di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với cộng đồng cư dân như phong tục tập quán, nghề thủ công, lễ hội truyền thống…vẫn chưa được nhìn nhận và phát huy vai trò một cách đúng mức.

Ngoại trừ một số di tích tọa lạc ở nơi có cảnh đẹp hoặc phản ánh về lịch sử-văn hóa của vùng đất như Tháp Bà, Hòn Chồng, chùa Long Sơn, thì rất ít công ty du lịch xem đình/chùa/miếu là điểm tham quan văn hóa. Sở dĩ các công ty du lịch không xem di tích là điểm đến của địa phương một phần là do không nắm được vai trò, vị trí của di tích đối với sự hình thành làng xã của địa phương đó, mặt khác là do hướng dẫn viên hiểu biết chưa sâu sắc về giá trị lịch sử-văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật của các thiết chế văn hóa, vì vậy chưa chuyển tải hết giá trị văn hóa vào du lịch nhất là các chương trình du lịch chuyên sâu như du lịch tâm linh, du lịch về nguồn...

Hiện nay, các tour kết hợp tham quan di tích trong tỉnh vẫn còn rất ít so với nhu cầu thực tế của du khách. Mặt khác, các dịch vụ kèm theo như dịch vụ ăn uống, quà lưu niệm đặc trưng của địa phương...rất ít nơi thực hiện được. Có lẽ, đã đến lúc cần nhìn nhận đúng mức các giá trị của di tích để phát triển du lịch và từ nguồn thu của hoạt động du lịch để giải quyết những nhu cầu cơ bản của di tích là tu bổ và làm phong phú cho phần hội, tạo môi trường văn hóa lành mạnh, mang đậm tính nhân văn và gắn kết mọi người trong làng lại với nhau, bảo lưu và trao truyền tinh hoa văn hóa dân tộc.

Tính đến cuối năm 2021, Khánh Hòa có 16 di tích xếp hạng quốc gia, 180 di tích xếp hạng cấp tỉnh, 03 DSVH phi vật thể quốc gia và là một trong chín tỉnh/thành phố ở khu vực Trung bộ có loại hình nghệ thuật Bài Chòi được UNESCO công nhận di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là nguồn di sản quan trọng trong việc phát kinh tế, văn hóa – xã hội của địa phương. Để làm tốt điều đó, các cấp chính quyền và cơ quan hữu quan cần xúc tiến việc quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa nhằm đa dạng hóa và nâng cao các sản phẩm du lịch, tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, văn hóa đa dạng trong sự thống nhất với nhau.

Tuy nhiên, một điều bất cập hiện nay là ngành du lịch và văn hóa đang có sự chồng chéo: một phía thì quản lý, một phía thì khai thác; ngành du lịch muốn làm gì thì phải được sự đồng ý của ngành văn hóa. Mô hình du lịch lý tưởng phải có sự cộng hưởng, tương tác chiến lược các giá trị lịch sử - văn hóa, cảnh quan thiên nhiên, ẩm thực...để tạo ra sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú và có bản sắc riêng.

Festival biển Nha Trang đã trở thành thương hiệu của Nha Trang - Khánh Hòa, vào thời điểm này, khách du lịch thập phương và nhân dân trong tỉnh tụ hội về Nha Trang rất đông. Cần đa dạng các loại hình du lịch, giới thiệu những sản phẩm du lịch của địa phương đến với khách du lịch. Từng bước đưa lễ hội đình làng đặc biệt là lễ hội Cầu ngư trở thành điểm nhấn trong hoạt động du lịch ở mỗi kỳ festival biển Nha Trang. Trong việc phục dựng lại lễ hội đình, cần tái hiện đến yếu tố nghi lễ mang tính trang nghiêm, đúng bài bản; phần hội nên kết hợp các trò chơi dân gian mang đậm sắc thái văn hóa đặc trưng của địa phương, kích thích du khách hòa mình vào lễ hội để họ trực tiếp cảm nhận được giá trị đích thực của lễ hội đình Khánh Hòa.

Đối với lễ hội đình làng, phần lễ phải chuyển tải được lòng biết ơn đối với thần linh và cao hơn hết thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với Ông Bà tổ tiên, Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ; phần hội cần làm sao để nó trở thành ngày hội văn hóa - nghệ thuật, thể thao...chính quyền địa phương và cơ quan văn hóa cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để dân làng tổ chức các trò diễn xướng dân gian truyền thống như hò/hát Bá Trạo, hát Bội vào mỗi dịp cúng Xuân vừa tạo không khí vui tươi trong những ngày đầu năm vừa gắn kết mọi người xích lại gần nhau hơn trong “ngôi nhà công cộng” của làng xã.

Đối với việc tu bổ, tôn tạo di tích, hàng năm Ban Quản lý di tích cần phối hợp với cơ quan chuyên môn kiểm tra lại các cấu kiện gỗ, phù điêu, điển tích...ở di tích một cách bài bản và khoa học. Công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải thực hiện đúng theo Luật Di sản Văn hóa và các văn bản hướng dẫn của địa phương.

Trong 125 đình làng được xếp hạng, đã thành lập các Ban/Tổ quản lý (Tổ bảo vệ) chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của UBND xã/phường/thị trấn; dưới sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Văn hóa và Thông tin xã/phường/thị trấn và Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa. Các ngôi đình đã xếp hạng di tích đã và đang được quan tâm của các ngành về việc bảo quản, tu bổ và phục hồi nhằm gìn giữ công trình tồn tại theo nguyên gốc vốn có của nó. Kinh phí thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, một số đình làng, tiêu biểu như đình Phương Sài được tu bổ 100% từ nguồn kinh phí xã hội hóa.

4. Kết luận

Cùng với quá trình khai hoang lập làng, đình đã hình thành và tồn tại hơn ba thế kỷ trên vùng đất Khánh Hòa. Đình là nơi thể hiện hầu như toàn bộ thế giới quan và nhân sinh quan của người dân trên một vùng đất, bởi ở đó tập trung những nét kiến trúc, nghệ thuật, mỹ thuật tiêu biểu của làng; nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của quân và dân tỉnh Khánh Hòa; vừa là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng vừa là “sợi dây” cố kết cộng đồng cư dân trong làng thành sức mạnh thống nhất, chung tay xây dựng và kiến thiết làng xã ngày càng phồn thịnh. Thông qua lễ hội đình, các giá trị văn hóa được gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ.

Đình được xếp hạng đã khẳng định được giá trị, vai trò, vị trí của di tích đối với môi trường văn hóa làng xã. Đây là “thương hiệu” nhưng cũng là trách nhiệm đối với chủ sở hữu di tích trong công tác bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa phục vụ cho sự phát triển du lịch của địa phương trong thời gian tới. Để làm tốt điều đó, cần xây dựng kế hoạch cụ thể, cần nắm rõ Luật Di sản văn hóa, hiểu thấu đáo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng nhận thức rõ những thuận lợi và bất cập trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong phát triển du lịch từ đó mới hoạch định được những giải pháp khả thi, thỏa đáng cho các cấp chính quyền, Ban Quản lý, cộng đồng cư dân địa phương cũng như doanh nghiệp lữ hành./.

* CHÚ THÍCH

(a). Tiên sư, Tổ nghề như đình Lư Cấm thờ ông tổ một làng nghề đã một thời tạo nên thương hiệu về một sản phẩm thủ công truyền thống-gốm Lư Cấm, đó là cụ Đào Lư Nghệ. Ghi nhận những đóng góp có giá trị về lịch sử-văn hóa và kinh tế của làng xã, cụ Đào Lư Nghệ đã được các vua triều Nguyễn ban tặng 03 đạo sắc phong với mỹ tự “Linh Phù Dực Bảo Trung Hưng Đoan Túc Tôn Thần”.

(b). Đình Phú Vinh (Nha Trang) thờ Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong, đình Phương Sài (Nha Trang) thờ ông Mai Thiên Tải, đình Vĩnh Hội (Nha Trang) thờ ông Võ Duy Quyên, đình Phước Thạnh (Diên Khánh) thờ cử nhân Kiều Khắc Hài, đình Quang Thạnh (Diên Khánh) thờ Bố chánh Nguyễn Xuân Ý, đình Trà Long (Cam Ranh) thờ Tàng Lang Vương-người Chăm...Ngoài ra, những người có công lớn trong việc lập làng, tạo dựng đình được dân làng suy tôn là Tiền hiền, người có công kế thừa và tiếp tục phát huy thành quả của cha ông làm cho xóm làng phát triển gọi là Hậu hiền. Tiền hiền-Hậu hiền sau khi mất được dân làng liệt thờ trong đình cùng với Thành hoàng và các vị thần khác.

(c). Ví dụ câu đối ở đình Quan Đông (Ninh Hòa) và đình Xương Huân (Nha Trang):

關 河 美 景 神 安 人 樂 廣 施 千 戶 福

東 寺 北 廟 聖 扶 人 物 永 鎮 一 方 安

Quan hà mỹ cảnh thần an nhân lạc quảng thi thiên hộ phước,

Đông tự bắc miếu thánh phò nhân vật vĩnh trấn nhất phương an.

(Non sông cảnh đẹp, thần an người vui, rông ban ngàn nhà phước,

Đông chùa bắc miếu, thánh giúp người, vật, mãi giữ một phương an).

     

     

Xương ngã hương lân thành cựu quán,

Huân dân tâm chí kiến tân cơ.

(Quê ta hưng thịnh, nên tập quán,

Lòng dân góp sức, dựng cơ ngơi).

(d). Tiêu chuẩn  lựa chọn những người vào ban tế tự cũng phải xem xét rất kỹ lưỡng. Người được lựa chọn vào Ban tế tự phải là người có đạo đức, được dân làng yêu mến, kính trọng, tuổi từ 40 trở lên... Gia đình người được lựa chọn phải có đủ các thành viên (vợ, con trai, con gái), không có tang. Quan niệm truyền thống cho rằng nếu trong ban tế tự mà lựa chọn người không đủ những tiêu chuẩn trên sẽ gây ra điều xấu cho dân làng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Hà Văn Tấn-Nguyễn Văn Kự (2014), Đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 13-18.
(2), (6), (7). Số liệu từ Trung tâm Bảo tồn di tích Khánh Hòa; Trung tâm Bảo tồn di tích Khánh Hòa (2013), Đình làng Khánh Hòa, Nxb.Văn hóa -Thông tin, tr.19, 23; Quyết định 2228/QĐ-UBND, ngày 06/8/2018 của UBND tỉnh Khánh Hòa về việc phê duyệt, công bố danh mục kiểm kê di tích trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đến 31 tháng 12 năm 2017.
(3). Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, tr.28.
(4). Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb. Mỹ Thuật, Hà Nội, tr.12.
(5). Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.98.
(8). Bronislaw Malinowski, “Ma thuật, khoa học và tôn giáo”. In trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Những vấn đề  nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa và Nay-Nxb. Đà Nẵng,  tr. 159.
(9). Ngọc Tú, Tín ngưỡng thờ thần hoàng ở Nam Bộ, https://baotintuc.vn/
(10).http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nghi-quyet-trung-uong-5-khoa-viii-chien-luoc-van-hoa-cua-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-115273
(11). Luật Di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 21.

[1] 1 (Đình Phương Câu ở tại phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang.

Trần Thị Thanh Loan

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 2
 

Tin khác

breaker
DI TÍCH CÁCH MẠNG Ở KHÁNH HÒA – VẾT TÍCH QUA THỜI GIAN
Di sản cách mạng nói chung và di tích cách mạng nói riêng là những bằng chứng vật thể và phi vật thể phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước ta từ tay Pháp (1930 – 1945), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954), cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thống nhất đất nước (1954 – 1975), cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979), chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và công cuộc xây dựng đất nước từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay gần 1 thế kỷ.
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ NỮ THẦN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA BIỂN Ở VÙNG VEN BIỂN NHA TRANG - KHÁNH HÒA
Môi trường tự nhiên và xã hội đã tạo nên phương thức sống, lối ứng xử và hình thành nên môi trường văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng. Với địa hình chiếm ưu thế nổi trội về biển đảo, Nha Trang được ví như “chiếc boong tàu của Tổ quốc”, biển đảo đã chi phối mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cư dân ven biển. Tín ngưỡng thờ Mẫu và nữ thần không những tích hợp các giá trị tín ngưỡng tâm linh, chiều sâu tâm thức mà còn ẩn chứa các giá trị văn hóa, ứng xử, cách thích nghi của con người với môi trường sinh thái biển.
TỤC THỜ CÁ ÔNG CỦA CƯ DÂN KHÁNH HÒA
Tục thờ cá Ông là dạng tín ngưỡng đặc sắc trong đời sống tâm linh của cộng đồng cư dân biển đảo từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam. Người dân vùng biển, nhất là ngư dân luôn kính trọng và biết ơn sinh vật này vì đã giúp đỡ họ ra khơi thuận buồm xuôi gió và đánh bắt được nhiều cá tôm. Trong tâm thức của cư dân miền biển, cá Ông đại diện cho lòng hướng thiện của nhà Phật, chuyên cứu nguy và phù hộ độ trì cho những người có công cuộc mưu sinh gắn liền với biển. Sự tôn kính và quý trọng đó đều có quá trình, ban đầu chỉ là biểu hiện của lòng tốt, sau đó như một vật linh, vị thần hộ mạng. Ngư dân kính trọng cá Ông được thể hiện trước hết qua danh xưng, sau đó là hệ thống cơ sở thờ tự phổ biến với nội hàm phong phú gồm kiến trúc, lễ hội và các nghi thức, nghi lễ chặt chẽ
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT CỦA HÒ BÁ TRẠO Ở KHÁNH HÒA
Là một trò diễn dân gian vùng Nam Trung bộ nên Hò Bá trạo (1) ở Khánh Hòa cũng hội đủ những đặc điểm của loại hình sân khấu dân gian với các hình thức diễn xướng tổng hợp như: múa, hát, nói…Hò Bá trạo ở Khánh Hòa có độ dài dao động từ 45 đến 60 phút và có nội dung, cấu trúc hết sức chặt chẽ.
Giản giới tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa
Trong tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần ở Việt Nam nói chung thì Ngũ Hành thần nữ mà dân gian thường gọi là mẹ Ngũ hành hay bà Ngũ hành được thờ tự phổ biến ở các làng xã đặc biệt là tại các tỉnh ở Nam Trung bộ và Nam bộ. Đối với vùng đất Khánh Hòa, tục thờ này vẫn đang được bảo lưu và thực hành rộng rãi. Vậy tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa biểu hiện cụ thể ra sao? Các triều đại quy định điển lễ và ban tặng sắc phong đối với Ngũ Hành thần nữ như thế nào?... đó là những vấn đề cần tìm hiểu mà bài viết này mong muốn đề cập ngõ hầu góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tục thờ nữ thần nói riêng và tín ngưỡng thờ mẫu nói chung.
TÍN NGƯỠNG THỜ THIÊN Y A NA Ở KHÁNH HÒA
Khi vào định cư ở vùng đất mới, người Việt đã mang theo tôn giáo, tín ngưỡng của mình: Phật giáo, Thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu… và trong quá trình cộng cư, hoà cư đó người Việt đã nhanh chóng tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hoá người Chăm, trên cơ sở đó “sáng tạo” nên những truyền thuyết để “Việt hoá” tín ngưỡng thờ Bà Mẹ Xứ Sở của người Chăm Po Inư nagar thành Thánh Mẫu Thiên Y A Na bằng những truyền thuyết hết sức dung dị và dân gian.