Mở đầu
Truyện thơ hay còn là truyện Nôm, truyện thơ Nôm (sau đây gọi là truyện thơ) là một hiện tượng văn học độc đáo của dân tộc ta; nó gắn liền liền với tên tuổi của các tác gia lớn và những thành tựu của văn học Việt Nam thời trung đại. Truyện thơ có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta và có thể xem đây là loại hình văn học mang tính đặc trưng nhất, thuần Việt nhất; là thể loại có nhiều thành tựu nhất từ trước đến nay. Trong đó, với những tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu là những điển hình.
Kho tàng truyện thơ Việt Nam hết sức phong phú về số lượng tác phẩm cũng như chủng loại. Trong chuyên luận “Truyện Nôm - lịch sử phát triển và thi pháp thể loại”, nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch thống kê được 120 tác phẩm truyện thơ Nôm. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là con số tương đối, bởi vẫn còn một số tác phẩm lưu lạc trong dân gian hoặc lưu trữ trong các thư viện nước ngoài mà nhà nghiên cứu chưa có điều kiện tiếp cận được. Nhưng chỉ chừng ấy thôi, cũng đủ cho chúng ta hình dung được lịch sử phát triển và sức ảnh hưởng của loại hình này trong đời sống tinh thần của nhân dân ta trải dài hơn bốn thế kỷ.
Nói đến truyện thơ Nôm tất nhiên là nói đến loại truyện thơ được ghi chép bằng chữ Nôm; nhưng nếu chúng ta quá nhấn mạnh đến yếu tố văn tự mà coi nó là văn học viết thì chưa thưa chính xác. Bởi lẽ, có nhiều dấu tích đã cho thấy hầu hết các truyện thơ bình dân đều được sáng tác, lưu truyền qua truyền khẩu trước khi được ghi chép bằng chữ viết. Ngay cả đến những tác phẩm từ ban đầu đã được ghi chép bằng chữ viết như “Truyện Kiều”, “Lục Vân Tiên” thì nhân dân vãn thích bằng hình thức kể, diễn xướng hơn là đọc trên giấy. Vì vậy mà trong dân gian đã sinh ra các hình thức diễn như: Ngâm Kiều, nói thơ Vân Tiên, hô Bài chòi truyện… và bằng các hình thức này những tác phẩm truyện thơ như: Lâm Sanh – Xuân Nương, Phạm Công – Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn và cả Kiều, Lục Vân Tiên mới đến được với đông đảo nhân dân lao động. Tính truyền khẩu là đặc điểm quan trọng nhất của truyện thơ và chính điều đó đã khiến cho truyện thơ khác biệt với các thể loại văn học thời trung đại ở nước ta. Vì vậy đến nay, tuy vẫn còn bàn cải nhưng nhiều nhà nghiên cứu vẫn xếp truyện thơ vào loại hình Văn học Dân gian.
Ở Khánh Hòa, qua khảo sát điền dã đã sưu tầm được một số bài thơ trường thiên kể chuyện về Thiên Y Thánh Mẫu rất đậm phong vị văn học dân gian của vùng đất Khánh Hòa mà nhân dân thường gọi là “bài Vãn”. Và tất nhiên, những đặc trưng nội dung, nghệ thuật của truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa cũng không nằm ngoài những đặc điểm chung của thể loại này.
Chương I: Những vấn đề chung về Truyện Thơ, Bài Vãn ở Khánh Hòa
I. Khái niệm:
1. Truyện thơ: Tức truyện thơ Nôm. Là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam; là một loại hình văn học kết hợp phương thức tự sự với trữ tình. Truyện thơ luôn có cốt truyện, tình tiết, nhân vật và có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Hầu hết bộ phận văn học này được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát - thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðường luật), song thất lục bát.
“Từ điển bách khoa Việt Nam” đã khái quát truyện thơ như sau: “Thể loại đặc biệt trong văn học cổ Việt Nam, có sớm nhất từ thế kỷ 15, 16, song song với những chuyện sáng tác bằng chữ Hán. Truyện Nôm hoàn toàn dùng các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, phát triển mạnh vào thế kỷ 18. Giai cấp thống trị đã có lúc ra lệnh cấm lưu hành. Tác giả phần lớn là trí thức bình dân, có học ít nhiều, chưa xa cách đại chúng. Lời thơ dễ dãi, đề tài lấy trong truyện dân gian, hoặc tự sáng tác. Những truyện này thường khuyết danh, vì chính tác giả không nghĩ đén lưu hành hoặc vì bị cấm mà giấu tên. Nhưng cũng có truyện hữu danh, tác giả là những nhà trí thức có tên tuổi. Lại cũng có truyện Nôm chắc chắn do những người bác học sáng tác, nhưng không rõ vì lý do gì mà khuyết danh. Phần lớn truyện Nôm bác học là diễn Nôm tác phẩm Trung Quốc. Nhiều truyện Nôm được các nghệ nhân hát rong đưa ra kể thơ như “Kiều”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Lục vân Tiên”,” Thoại Khanh - Châu Tuấn”. [2, tr 632]
Về việc phân loại truyện thơ: Đến nay ở nước ta vẫn chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, có ba cách phân loại sau đây được xem là phổ biến nhất. Đó là:
- Dựa vào nguồn gốc đề tài: Lấy đề tài, cốt truyện từ truyện cổ dân gian; lấy tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc hoặc lấy đề tài, cốt truyện từ những sự tích có thật ở Việt Nam.
- Dựa vào nội dung và hình thức: Truyện thơ bình dân và Truyện thơ bác học.
- Dựa vào mối quan hệ với tác giả: Truyện thơ hữu danh và Truyện thơ khuyết danh.
Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, trong đó cách phân loại dựa vào nội dung và hình thức là có giá trị khoa học hơn cả.
2. Vãn: Vãn ca (挽 歌; Tiếng Anh: Elery; Tiếng Nhật: Banka). Theo các tài liệu, từ điển xưa và nay đều định nghĩa Vãn ca là “bài ca ai điếu”. Ở Trung Quốc, từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã có thể loại này, gồm phần âm nhạc và ca từ hợp thành được dùng để hát lên trong lễ tang (chủ yếu là giai cấp trên). Đến thời Hán Ngụy (sau khi Tào Tháo diệt xong Tây Thục và Đông Ngô) Vãn ca được triều đình quy định như một “lễ tục” trong tang lễ. Về sau, Vãn ca đã trở thành phổ biến như một thể loại thi ca và được nhiều nhân sĩ sáng tác. Điển hình là 3 bài Vãn ca của Đào Tiềm (Đào Uyên Minh). Ở Việt Nam ta, bài “Ai tư vãn” của Ngọc Hân Công chúa có lẽ là bài Vãn ca tiêu biểu nhất (?) Nhiều người cũng xếp các bài văn tế viết theo thể song thất lục bát, lục bát… vào thể loại này.
Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì cho rằng Vãn là Ngâm khúc và là“thể thơ trữ tình dài hơi, thường được làm theo thể song thất lục bát, để ngâm nga, than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm...”
Trong thực tế, có nhiều bài Vãn ngợi ca công đức của các bậc Thánh Mẫu được tín đồ hát lên như một nghi thức của Đạo Mẫu vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Đáng tiếc, loại hình này ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. Vì vậy, cho đến nay “Vãn ca” nhất là những bài Vãn dân gian vẫn chưa có một định nghĩa nào thật là rành mạch.
II. Bối cảnh ra đời của các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa:
Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian thì quá trình hình thành và phát triển thể loại truyện thơ Nôm ở nước ta diễn tiến như sau:
- Giai đoạn đầu (thế kỷ thứ XVI): Là giai đoạn hình thành và bắt đầu có những tác phẩm.
- Giai đoạn 2 (thế kỷ thứ XVII): Là giai đoạn khẳng định chính thức có văn bản truyện thơ Nôm.
- Giai đoạn 3 (từ thể kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX): Là thời kỳ vàng son của thể loại với số lượng tác phẩm nhiều và có kiệt tác như “Đoạn trường tân thanh”.
- Giai đoạn cuối (từ nửa cuối thế kỷ thứ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX): Là thời kỳ giã từ của truyện thơ Nôm.
Tuy nhiên, điều đó đã không hoàn toàn đúng với tất cả địa phương trong cả nước và sự ra đời của các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa có thể là một ví dụ.
Khảo sát các truyện thơ và bài vãn ở Khánh Hòa chúng ta thấy tất cả đều thuộc loại lấy đề tài từ tôn giáo (tín ngưỡng) và tập trung chủ yếu vào sự tích Thiên Y Thánh Mẫu. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi, bởi tục thờ Thiên Y Thánh Mẫu từ xưa vốn đã là tín ngưỡng gốc của người dân vùng đất Khánh Hòa và có thể xem đấy như hiện tượng đặc trưng của vùng đất này. Ở Khánh Hòa bên cạnh huyền sử về Thiên Y Thánh Mẫu còn khá nhiều những truyền thuyết, những hiện tượng có liên quan đến Bà được nhân dân lưu truyền. Và những điều ấy cũng là một trong những nguyên nhân giải thích vì sao Khánh Hòa có nhiều truyện thơ, bài vãn về Bà đến vậy.
Theo các nhà nghiên cứu văn học dân gian, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX được xem như thời kỳ truyện thơ đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và là “thời kỳ giã từ của truyện thơ”; là lúc nền Hán học ở nước ta đã đi vào thời suy tàn để nhường chỗ cho nền Tây học phát triển, chữ quốc ngữ đã thay dần cho chữ Hán Nôm.
Cũng giai đoạn này, ở các tỉnh phía Nam nhiều nhà trí thức mới còn lưu luyến và am hiểu chữ Nôm, hay nói đúng hơn là những nhà trí thức mới xuất thân từ gia đình Nho học đã chuyển ngữ nhiều “bổn thơ Nôm” thành quốc ngữ và sau đó cho xuất bản những tập truyện thơ khuyết danh gọi là “Bổn cũ soạn lại”. Đi đầu trào lưu này là ông Phạm Văn Thình - chủ nhà bản Phạm Văn Thình – Sài Gòn là người có công nhất (?) Ngày nay căn cứ vào những cuốn truyện thơ “Bổn cũ soạn lại” còn giữ được và theo Nhà văn, Nhà Nam Bộ học Sơn Nam thì trào lưu này có thể bắt đầu từ năm 1906 – 1914. Những cuốn sách mỏng, hiện đại này được phát hành rộng rãi ở Nam Bộ, ngược ra miền Trung đã được giới tiểu thị dân, những người bình dân đón nhận nhiệt tình. Các bổn thơ, như: Phạm Công - Cúc Hoa, Lâm Sanh - Xuân Nương, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Chàng Nhái - Kiểng Tiên, Lang Châu - Lý Ân, Thạch Sanh - Lý Thông… xưa chỉ một số người biết và kể cho nhau nghe theo kiểu “chỗ có, chỗ không” thì nay đã đến tận tay mọi người trọn vẹn và chính xác nhất. Những bổn thơ ấy là món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân lao động ở Khánh Hòa cho đến mãi tận những năm 50, 60 của thế kỷ trước.
Không có Nói thơ như người dân Nam Bộ, người dân Nam Trung Bộ đã sử dụng các làn điệu Bài chòi của mình để hát lên những truyện thơ này, dần dà hình thành nên cách “Hô Bài chòi truyện” rồi được các nghệ sĩ hát rong ở địa phương gọt giũa, sáng tạo thêm để thành Bài chòi trải chiếu - một trong những loại hình mà ngày nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các tỉnh Nam Trung Bộ đã thu thập tư liệu xây dựng hồ sơ khoa học trình Unesco công nhận và đưa vào “Danh mục văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại”. Những truyện thơ dân gian nhờ vậy mà càng đi sâu vào nhân dân Khánh Hòa hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh và xu hướng ấy, một số người trí thức có tâm thờ Mẫu Thiên Y ở Khánh Hòa cũng đã nhận ra tác dụng của các bổn truyện thơ dân gian và đã kịp thời diễn âm những truyện thơ, bài vãn về Thiên Y Thánh Mẫu hoặc dựa vào sự tích giáng trần của Bà để viết ra những truyện thơ, bài vãn mới đã được Nhân dân Khánh Hòa tiếp nhận, trao truyền, bảo lưu cho đến ngày nay. Thế nhưng, do niềm tin về Thánh Mẫu là đấng thiêng liêng nên hầu như các truyện thơ, bài vãn về Bà đã không được các nghệ sĩ Bài chòi ở địa phương lập thành vở diễn mà chỉ được xướng lên trong các cuộc lễ hay ngày vía của Bà.
Ngày nay, khi các truyện thơ dân gian một thời vang bóng kia đã gần như mai một, thì những truyện thơ, bài vãn về Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa vẫn còn được bảo lưu nguyên vẹn. Mới thấy cõi tâm linh, tín ngưỡng tưởng như vô hình nhưng lại có sự vững bền hơn tất thảy.
III. Những truyện thơ, bài vãn tiêu biểu ở Khánh Hòa:
Ở Khánh Hòa, vào khoảng đầu thế kỷ XX xuất hiện nhiều truyện thơ, Vãn ca viết để ca ngợi công đức Bà Thiên Y Thánh Mẫu, như: “Cổ tháp linh tích”, “Thiên Y Thánh Mẫu truyện ca”, “Vãn Bà”, “Thi Yên cổ tháp truyền kỳ diễn âm” và đặc biệt là truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”. Nội dung của các truyện thơ, bài vãn trên đều giống với sự tích Thiên Y Thánh Mẫu do Cụ Phan Thanh Giản soạn và được khắc tại văn bia Tháp Bà Nha Trang năm 1856. Sau đây là những nét khái quát về các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa.
- Truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” (Kinh văn Đức Thiên Y A Na Bồ Tát): Bộ Kinh văn này thực chất là một bổn truyện thơ kể về huyền tích của Thiên Y Thánh Mẫu, được viết theo thể thơ song thất lục bát gồm 576 câu. Qua cách hành văn, diễn đạt và nhất là ở hai câu cuối: “Đến đây dừng bút Kim Cơ/ Chào cùng môn đệ đến giờ phải thăng”, cho thấy bổn truyện thơ này được viết hoặc phóng tác theo “giáng bút”2 và cho phép ta đoán định được thời gian của truyện thơ này vào khoảng những năm đầu của thế kỷ XX.
So sánh với sự tích Thiên Y Thánh Mẫu do Cụ Phan Thanh Giản soạn thì truyện thơ này có thêm cả phần mở đầu dài 84 câu để nói về thời gian, không gian và sự ra đời của A Na. Theo đó xác định: “Đời nhà Đinh Việt Nam Thánh Đức/ Tại Khánh Hòa Thiên Lực chiếu phê/ Tây phương núi thảm sơn khê/ Một làng Chàm ở nương kề đỉnh cao…” và rồi “Có đôi bầu bạn vợ chồng/ Năm mươi xuân chẳng hơn hồng mới ban/ Bỗng thọ thai xóm làng cũng ngộ/ Đúng ngày giờ sanh sổ nữ nhi/ A Na tên đặt đã ghi/ Đêm sanh Thánh nữ voi quỳ nào hay.” Năm A Na lên bốn thì cha mất nên đời sống của hai mẹ con rất là cơ cực. Năm lên chín tuổi, một hôm mải mê tìm hái trái rừng nên bị lạc đường, A Na lo sợ khấn cầu ơn trên giúp đỡ và lời khấn ấy đã thấu đến Quan Thế Âm Bồ Tát, Tam Tòa Thánh Mẫu. Các ngài biết A Na Thánh nữ đang gặp tai ương bèn cậy Thái Thượng Lão Quân xuống trần cứu giúp. Thái Thượng Lão Quân đã hóa thân thành một lão nhân và đưa A Na đến vườn dưa của vợ chồng Tiều Công. Những sự kiện, nhân vật ở các phần sau đều giống như những sự kiện, nhân vật trong huyền tích Thiên Y Thánh Mẫu của cụ Phan Thanh Giản.
Cốt truyện của truyện thơ được kết cấu đúng với mô hình truyền thống của thể loại truyện thơ: Kể chuyện theo trình tự thời gian và kết thúc có hậu. Tuy nhiên, cũng như các truyện thơ dân gian lấy từ cảm hứng tôn giáo, như: Sự tích Đức Phật chùa Dâu, Tiên Hương Thánh Mẫu, Liễu Hạnh Công Chúa diễn âm…Truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” cũng đã xây dựng trên kết cấu “Xuất thân - Hành trạng - Hiển thánh”. Qua truyện thơ này chúng ta thấy rất rõ tư tưởng Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc và quyết định xu hướng sáng tác của tác giả.
- Vãn Bà: Được viết theo thể thơ lục bát, dài 208 câu. Toàn văn kể lại sự tích và ca ngợi công đức của Thiên Y Thánh Mẫu. Vãn Bà được lưu hành rộng rãi trên địa bàn Khánh Hòa. Hiện nay vẫn được hát trong các buổi “Hầu Bóng” tại các Am, Điện thờ Mẫu ở Khánh Hòa. Có thể nói, Kinh văn “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” và “Vãn Bà” là hai bổn truyện thơ, bài vãn có nhiều điểm mang dấu ấn riêng của vùng đất Khánh Hòa nhất.
- Cổ tháp linh tích: Là một bài vãn được viết theo thể thơ song thất lục bát, dài 160 câu mang đậm tính chất trữ tình. Theo tác giả Nguyễn Đình Tư thì bài này nguyên bản bằng chữ Nôm của một tác giả khuyết danh, do ông Nguyễn Năng Lự - chuyên viên viện khảo cổ (dưới thời chính quyền Sài Gòn) sưu tầm, phiên ra quốc ngữ và ông Bửu Cầm hiệu đính.
- Thi Yên cổ tháp truyền kỳ diễn âm: Cũng như “Cổ tháp linh tích”, “Thi Yên cổ tháp diễn ca” là một bài vãn được viết ở thể thơ song thất lục bát, dài 108 câu. Tương truyền, bài này do một tác giả khuyết danh sáng tác và được lưu truyền ở Khánh Hòa đến đầu thế kỷ XX thì bị thất truyền phần sau, nên cụ Tú tài Hán học Hoành Sơn Phan Huy Thuần tục diễn cho đầy đủ sự tích. Bài vãn này hiện vẫn được sử dụng tại các am thờ Thiên Y Thánh Mẫu trong các buổi “Hầu Bóng”. Thi Yên là kiểu nói lái để tránh phải gọi chính tên của Bà nhằm bày tỏ lòng tôn trọng đối với Thánh Mẫu.
- Thiên Y Thánh Mẫu truyện ca: Gọi là truyện ca, nhưng thực chất tác phẩm này là một bài vãn về sự tích và ca ngợi công đức của Thiên Y Thánh Mẫu, dài 206 câu song thất lục bát. Về kết cấu, nội dung thì bài này và “Vãn Bà” rất gần nhau, riêng ở đoạn cuối thì bài này có nhắc đến điện Huệ Nam (Hòn Chén). Tương truyền bài này do một tác giả khuyết danh sáng tác và do cụ Ưng Lê - Giám thị Chư tôn Lăng, Miếu, Điện Huế sưu tầm. Bài này hiện được phổ biến khá rộng tại Khánh Hòa và Huế.
- Truyện Bà Thiên Y A Na: Được viết ở thể thơ lục bát, dài 136 câu kể về sự tích Đức Thiên Y. Về nội dung, bài này có một số đoạn, câu giống như bài “Vãn Bà” nhưng tình tiết thì đơn giản hơn nhiều và có thể xem như một bài vãn ngợi ca công đức Thiên Y Thánh Mẫu. Hiện bài vãn này thường được nhóm Múa Bóng của Nghệ nhân Lê Bộc (xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh) sử dụng trong các cuộc lễ tế Thiên Y Thánh Mẫu.
Chương II: Đặc điểm nội dung, nghệ thuật của Truyện Thơ, Bài Vãn ở Khánh Hòa
I. Đặc điểm nội dung:
1. Ca ngợi công đức Thiên Y Thánh Mẫu
Đặc điểm nổi trội nhất trong nội dung các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa là sự ca ngợi công đức Thiên Y Thánh Mẫu - vị nữ thần được nhân dân Khánh Hòa tôn sùng và tin tưởng bậc nhất. Vẻ đẹp của Thiên Y Thánh Mẫu được mô tả một cách rực rỡ và kỳ bí. Khi giáng trần đã có sự khác thường:
“Trăm hoa nở vui say chào đón,
Muôn thú cầm tuyển chọn mừng vui;
Trăng thanh gió mát đượm mùi,
Cỏ cây chớm nở, bướm vui ong chào.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Và càng lớn lại càng xinh đẹp, đến cả người trần mắt tục như vợ chồng Tiều Công khi gặp lần đầu cũng dễ dàng nhận thấy:
“Tóc xanh màng mịn mày ngài,
Khuôn dung đầy kín, miệng khai hoa cười.
Nhìn nét mặt hoa tươi còn oán,
Răng trắng trong ngọc loáng còn ghen;
Nước thu dám sánh phận hèn,
Mũi rồng, tai Phật, hoa sen mắt nhìn.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang)
Vẻ đẹp của bà càng rực rỡ hơn trong giai đoạn hóa thân thành “Nàng Trầm hương” khi tương ngộ cùng Thái tử Bắc Hải:
“Nhìn diện mạo như là Phụng các,
Nét cung mi như tạc gương thiên;
Long lanh đôi mắt diệu huyền,
Lấy tay vời nguyệt chim Uyên gọi bầy.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang)
Không chỉ đẹp về ngoại hình, Thánh Mẫu còn là có tấm lòng bao la của người mẹ. Người thương tất cả chúng sinh và ra sức dạy dỗ:
“Dân sanh thuở ấy tuy đông,
Nhưng bề dưỡng tánh thì không biết gì.
Chúa Tiên dạy bảo các bề,
Trai cày gái dệt các nghề trị sinh;
Nam hôn, nữ giá phân minh,
Dưỡng sanh, tang tử đành rành nghi văn.”
(Trích “Vãn Bà”)
Và khi được hiển thánh về lại cõi tiên Bà vẫn luôn linh ứng phù trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi:
“Rừng nhiều voi cọp hung hăng,
Dạy cho rọ bẫy đón ngăn các loài.
Nhân dân nhờ được khỏi tai,
Ăn no, mặc ấm, trong ngoài vững yên.
Người đều cảm đội ơn tiên,
Tạc làm tượng đá lưu truyền nhân gian.”
(Trích “Vãn Bà”)
2. Phản ánh đạo lý Nhân dân và đời sống tâm linh của người Khánh Hòa
Tục thờ Thiên Y Thánh Mẫu là một tập tục, tín ngưỡng lâu đời của người dân Khánh Hòa, đó là kết quả của sự cộng sinh, cộng cư giữa hai dân tộc Chăm - Việt trên vùng đất phía cực đông này. Ở Khánh Hòa người dân thờ Thiên Y Thánh Mẫu ở khắp mọi nơi, từ: tháp, miếu, đình, am và cả trong gia đình. Tục thờ này có sức ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của mọi người và là tín ngưỡng gốc của người dân Khánh Hòa vậy! Và những bài vãn, truyện thơ về Thiên Y Thánh Mẫu đã phản ánh sinh động đạo lý cũng như đời sống tâm linh của người dân Khánh Hòa.
Những bài vãn về đề tài này, như: “Cổ tháp linh tích”, “Vãn Bà”, “Thi Yên cổ tháp truyền kỳ diễn âm”, “Thiên Y Thánh Mẫu truyện ca” đều được diễn âm từ truyền thuyết về Thiên Y Thánh Mẫu do cụ Phan Thanh Giản biên soạn để ca ngợi công đức của Thiên Y Thánh Mẫu theo đạo lý và tín ngưỡng dân gian bản địa. Vì Thánh Mẫu đã chăm lo, dạy dỗ cho dân, nên người dân đã tỏ lòng tôn kính và xây đền, dựng tháp để sớm hôm thờ phụng:
“Đua nhau lạy tạ thâm ân,
Xây điện dựng tháp mười phần nguy nga.
Giữa xây tháp lớn thờ Bà,
Kế sau một tháp gọi là thờ Ông.
Đôi bên bốn tháp cũng đồng,
Thờ Cô cùng Cậu, vợ chồng Tiều Công.
Đêm ngày đèn thắp hương chong,
Dâng hoa cúng quả ca công chào mời.”
(Trích “Vãn Bà”)
Trong thâm tâm của người dân Khánh Hòa, Bà là vị phúc thần luôn ngự ở trên cao, sẵn lòng phù trợ muôn dân:
“Mắt sao, da tuyết rạng ngời,
Khác nào Vương Mẫu giữa trời mới sa.
Trăm ngàn món ngọc chói lòa,
Mãng điều, xiêm trắng ngự tòa hây hây.
Ngàn muôn sinh nữ sắp bày,
Hoa hương cúng hiến sắp đầy trước sau.
Dầu ai Nam Bắc đâu đâu,
Chuyện gì khúc mắc đến cầu cũng linh.”
(Trích “Vãn Bà”)
Vì vậy, Bà là Mẹ xứ sở và sống mãi trong lòng dân Khánh Hòa. Mà đâu chỉ vậy, đến như loài cầm thú cũng còn biết cúi đầu thuần phục:
“Thường năm tháng tốt ngày lành,
Thượng cầm, hạ thú đồng thanh về chầu.
Cọp hùm đến cũng cúi đầu,
Cá đua dưới nước, tượng chầu trên non.
Trao qua lại thấy mấy hòn,
Ngàn muôn năm cũng vẫn còn hiển linh…”
(Trích “Vãn Bà”)
Niềm tin ấy, tưởng như giản đơn nhưng vô cùng vững chắc. Bởi vì, nó chính là kết tinh tình yêu quê hương của bao kiếp người đã sinh ra, lớn lên trên miền đất thắm màu huyền thoại về Thiên Y Thánh Mẫu và huyền thoại ấy không biết tự bao giờ đã trở thành điểm tựa tâm linh của người dân “Xứ Trầm hương”.
Thế nhưng, nếu các bài vãn ở Khánh Hòa đều được hát lên để ca ngợi công đức của Thiên Y Thánh Mẫu theo tâm thế của tín ngưỡng dân gian bản địa, thì truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” đã có đôi phần thay đổi.
Qua khảo sát, chúng ta có thể thấy rất rõ ở truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” mang nội dung tôn giáo rõ nét. Yếu tố “Tam giáo đồng nguyên” mà tư tưởng chủ đạo chính là Phật giáo. Cũng xin nói rõ thêm, ở Khánh Hòa hiện nay có rất nhiều am và cả chùa đều có gian thờ Bà Thiên Y với tôn danh là Phật Mẫu. Ở truyện thơ này, xuất thân và hành trạng của Bà cũng đã có một ít cải biên so với truyền thuyết gốc.
Theo truyền thuyết, Thiên Y Thánh Mẫu là một tiên nữ giáng phàm, trải qua bao nhiêu đắng ngọt các số phận của người trần, rồi lại trở về cõi tiên được nhân dân tôn làm Thánh Mẫu. Thế nhưng, do bị chi phối bởi tâm thức Phật giáo, nên tác giả đã có thêm đoạn kết và qua đó, Thiên Y Thánh Mẫu đã trở thành Bồ Tát và điều đó đã giải thích vì sao ngày nay vào các ngày tế tự tại Tháp Bà - Nha Trang và Am Chúa - Diên Khánh cùng nhiều nơi khác đều cúng chay chứ không còn cúng mặn như trước đây nữa. Tác giả đã cho Bà tự khẳng định mình qua “giáng bút”:
“Trước ngày Mẹ đã phẩm Tiên,
Mà nay Bồ Tát độ miền trần mê.
Trước giao duyên ở Tề Bắc hải,
Nay về Nam được hái lộc Thiên.
Hiện giờ Nam Hải tự nhiên,
Mà trần lầm tưởng Thánh Tiên mãi hoàì.
Không tự tỉnh miệt mài tri kiến,
Lễ sát sanh mượn tiếng cầu an,
Đem dâng tất cả ruồi lằn,
Mẹ buồn nên mới phải băng về Trời.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang)
Cùng đi từ một truyền thuyết như nhau, nhưng xem ra nội dung của các bài vãn về Thiên Y Thánh Mẫu và truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” - đã có đôi phần khác biệt. Thế mới biết tâm thức của tác giả quyết định tất thảy!
II.Đặc điểm nghệ thuật:
1. Kết cấu cốt truyện
Hình tượng Thánh Mẫu từ lâu đã xuất hiện trong văn học, văn hóa dân gian với những Thánh Mẫu tiêu biểu như: Liễu Hạnh Thánh Mẫu, Thiên Y Thánh Mẫu, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu... Những truyện kể về các Thánh Mẫu ra đời trên cơ sở đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong xã hội, đồng thời xuất phát từ khát vọng, từ nhu cầu thiết thực của đời sống tâm linh của nhân dân trước hiện thực đời sống đã tự thân bộc lộ những truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam.
Cũng như hầu hết các truyện viết về các Thánh Mẫu ở Việt Nam, truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” mà nhân vật trung tâm là Thiên Y A Na Thánh Mẫu - một vị Nữ thần được cộng đồng dân tộc Chăm và Kinh ở Khánh Hòa tôn là Bà Mẹ Xứ sở. Cốt truyện được kết cấu theo trình tự thời gian gồm các phần: Mở đầu: Xuất thân; Hành trạng và phần kết: Hiển linh, phong Thánh.
1.1. Xuất thân
Nếu các bài vãn như: Thiên Y Thánh Mẫu truyện ca, Vãn Bà, Cổ tháp linh tích... đều chỉ nói Thiên Y Thánh Mẫu vốn là tiên nữ giáng trần xuống vườn dưa của vợ chồng Tiều Công trong hình hài của cô bé mười ba tuổi, sau đó được ông bà nhận làm con nuôi, thì trong truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” lại dành đến 84 câu thơ để nói rõ phần xuất thân của Thiên Y Thánh Mẫu. Theo đó, Bà vốn là tiên trên thượng giới được giáng trần vào làm con cho một đôi vợ chồng người Chăm nghèo khó:
“Đời nhà Đinh Việt Nam Thánh đức,
Tại Khánh Hòa Thiên lực chiếu phê,
Tây phương núi thẳm sơn khê,
Một làng Chàm ở nương kề đỉnh cao.
Xét tiền kiếp được vào hiền đức,
Quán lục hòa giác thức minh thông,
Có đôi bầu bạn vợ chồng,
Năm mươi xuân chẵn ơn hồng mới ban,
Bỗng thọ thai xóm làng cũng ngộ,
Đúng ngày giờ sanh sổ nữ nhi
A Na tên đặt đã ghi,
Đêm sanh Thánh Nữ voi quỳ nào hay ”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Và Bà đã trải qua bao nhiêu khó nhọc ngay từ thuở lọt lòng. Năm A Na lên bốn thì cha mất nên đời sống của hai mẹ con rất là cơ cực:
“Mệnh chung cha bị đui mù,
Lìa trần con mới bốn thu chẵn hòa”.
Năm lên chín tuổi, một hôm mải mê tìm hái trái rừng nên bị lạc đường, A Na lo sợ khấn cầu ơn trên giúp đỡ và lời khấn ấy đã thấu đến Quan Thế Âm Bồ Tát, Tam Tòa Thánh Mẫu. Các ngài biết A Na đang gặp tai ương bèn cậy Thái Thượng Lão Quân xuống trần cứu giúp. Thái Thượng Lão Quân đã hóa thân thành một lão nhân và đưa A Na đến vườn dưa của vợ chồng Tiều Công.
“Một hôm hái lá xa lều,
Mải mê kiếm trái lạc lưu dặm trường…
Kiếm nhà mẹ, kiếm đường càng khó,
Đêm canh dài phải bỏ leo cây,
Tạm an giấc ngủ đêm nầy,
Kiếm tìm làng cũ khó thay được nào.
Miệng van trời mắt trào lệ nhỏ,
Ở hư không thấy rõ phàm trần;
Quán Âm còn ngự trước sân,
Tam tòa Thánh Mẫu xem trần rõ thông.
Đức Quán Âm hội đồng Tiên lại
Xe Long châu giáng hãy tức thì;
A Na Thánh nữ còn đi,
Ở nơi sơn cước cấp kỳ cứu ngay.
Ngài Thái Thượng đến đây gặp mặt,
Hóa tiều phu tay dắt con ơi;
Đi đây con hãy nghe lời,
Về cùng với lão có ngay cửa nhà.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Sau một thời gian ở lại vườn dưa, A Na đã được vợ chồng Tiều Công nhận làm con nuôi và đã sống những ngày yên ấm:
“Tình mẫu tử ngày nay quyến luyến,
Cơ duyên trời lòng khiến thâm giao;
Ngày năng tin cậy ra vào,
Đêm trường tay gối ai nào còn hơn.
Bền tâm chí không sờn tấc dạ,
Ở sơn lâm cô quả nhất gia;
Tình thâm hơn thiệt giao hòa,
Sưởi lòng ấm lạnh sương pha lạnh lùng.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Nhưng A Na thân tuy ở chốn dương trần mà tâm vẫn luôn canh cánh hướng về tiên cảnh. Một hôm, A Na đã lựa đá xếp cây dựng lại cảnh tiên:
“Đá chồng non bộ thật cao,
Xây thành tráng lệ như vào động Tiên.
Có Quán Thế ngồi yên bằng đất.
Có chư tiên ngồi chật bằng tre,
Bày ra tất cả sân hè,
Vì lòng mơ tưởng trí e định thành.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Nhưng nỗi lòng của nàng đã không được Tiều Công thông cảm, lại la rầy, đánh mắng. Lòng buồn A Na chỉ còn biết khóc than, tiếng khóc của nàng đã thấu đến trời xanh nên các vị tiên đã giáng trần và làm phép để A Na cùng cây Kỳ hương bay qua biển Bắc:
“Lời thấm thiết canh ba thanh vắng,
Ở hư không lời đặng am tường;
Đại Tiên cưỡi hạc một phương,
Giáng trần tức khắc mở đường thần thông.
Bão thần kíp tạo phong lẫm liệt.
Đưa Thánh A làm việc tức thì;
A Na lại với cây Kỳ,
Bay ra bể cả chiếu y luật Trời.
Cưỡi Kỳ Hương ngàn khơi lướt gió,
Xuôi theo dòng từ đó quan sơn;
Mặc cho sóng gió chập chờn,
Tấp về bãi bể thanh sơn cát vàng.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Phần xuất thân của Thiên Y Thánh Mẫu trong truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” đã được phủ lên sương huyền ảo và đầy tính kỳ bí mà các truyền thuyết và cả những bài vãn về Bà đều không có.
1.2. Hành trạng
Cuộc đời của Thiên Y Thánh Mẫu trong truyền thuyết đầy những yếu tố ly kỳ nhưng cũng rất đời thường. Từ một cô bé mồ côi, nhưng khi đã hóa thân vào cây kỳ hương ngược sang Bắc Hải thì Bà đã hóa thành cô gái xinh đẹp mê hồn làm đắm say lòng Thái tử nước này:
“Áo nguyệt bạch ngón tay yểu điệu,
Dáng thướt tha bóng liễu còn ghen;
Môi son, hoa thắm kém hèn,
Răng trong lóng lánh ánh đèn còn thua.
Da trắng mịn như màu thu thủy,
Tuyết lộng gương còn úy khuôn trăng ;
Tóc mây xanh tợ thiên vân,
Nhìn trông mọi vẻ thế trần chưa ai. ”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Và rồi nàng đã trở thành vợ Thái tử rồi sinh hạ được hai người con: “Gái là Quý, Trí là trai/ Thiên hương một đóa, quỳnh chi một cành”. Mặc dù Bà rất yêu thương chồng, nhưng “thời gian ấn định Thiên đình đã ghi” Bà đã đưa hai con về lại quê nhà để hoàn thành sứ mệnh của mình. Cuộc đời làm vợ, làm mẹ của Bà cũng đã trải qua đầy đủ những buồn vui của kiếp người trước khi trở thành Thánh Mẫu; cuộc đời Bà vì vậy mà càng trở nên gần gũi với đời thường.
1.3. Hiển linh, phong Thánh
Thiên Y Thánh Mẫu trở về lại quê hương và khai hóa cho nhân dân; giúp nhân dân chống lại thiên tai, địch họa rồi cùng hai con trở lại cõi tiên. Sau khi hiển Thánh, Bà rất linh ứng và thường xuyên giúp đỡ con người qua khỏi tai ương. Bà thường cưỡi voi trắng dạo chơi trên đỉnh núi, có khi lại cưỡi cá sấu qua lại giữa núi Cù và hòn Yến, cũng có lúc Bà hóa thân thành dải lụa bay trên không:
“Từ thuở ấy chỉn càng linh hiển,
Phép thần thông biến hiện nhơn nhơn;
Có khi êm ấm một cơn,
Cỡi con bạch tượng chờn vờn ruổi đi.
…
Có khi chất vất trên không,
Cỡi con bạch hạc vẫy vùng liệng bay.
Có khi thấy dưới mây phấp phới,
Hình lụa đào chói chói ngang trời;
Có khi cỡi sấu thảnh thơi,
Khi nơi non Yến, khi nơi đỉnh Cù.”
(Trích “Cổ tháp linh tích”)
Với sự hiển linh và công đức ấy, Bà đã được Nhân dân và muôn loài tôn vinh, thuần phục, được triều đình tặng sắc, gia phong:
“Thường năm tháng tốt ngày lành,
Thượng cầm, hạ thú đồng thanh về chầu.
Cọp hùm đến cũng cúi đầu,
Cá đua dưới nước, tượng chầu trên non.
Trao qua lại thấy mấy hòn,
Ngàn muôn năm cũng vẫn còn hiển linh.
Phương quan tấu đến triều đình,
Nghị phong quan tế anh linh Thượng Thần.
Từ Đinh, Lê, Lý đến Trần,
Đế vương lịch đại cũng đều gia phong”
(Trích “Vãn Bà”)
Đến đời các vua triều Nguyễn đã gia phong cho Bà Thiên Y Thánh Mẫu cùng mỹ tự “Hồng nhân Phổ tế Linh ứng Thượng đẳng thần” và đời đời được Nhân dân thờ phụng với lòng thành kính nhất.
2. Hình tượng nhân vật
Với kết cấu cốt truyện “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” và các bài vãn về Bà ở Khánh Hòa, hình tượng nhân vật Thiên Y Thánh Mẫu đã được khắc họa một cách hết sức đậm nét và đã trở thành hình tượng mang Mẫu tính nổi trội.
Bàn về sự nổi trội của tính Mẫu, trong bài viết “Kiểu truyện về Thánh Mẫu và truyền thống trọng Mẫu trong văn hóa Việt Nam” tác giả Nguyễn Thị Nguyệt đã nêu ra ba đặc tính về Mẫu tính nổi trội như sau:“Là người mẹ, người vợ thực sự, làm tròn thiên chức của người mẹ, người vợ với gia đình và chồng con; Là bậc mẫu nghi, yêu thương chăm lo cho dân như con; Là vị thần chủ của xứ sở, che chở, bảo hộ, bảo trợ cho xứ sở.” Và hành trạng của Bà trong cuộc đời của mình đã có đủ cả những đặc tính trên.
Về cuộc tình duyên “tiên - tục”, tuy biết sẽ chẳng vững bền, nhưng khi: “Một lời Thái tử thiết tha/ Nguyện trời kết tóc tiên nga đến cùng”, thì Bà cũng đã cội nguồn bày tỏ về nỗi băn khoăn của mình: “Lời Tiên nữ ung dung e lệ/ Trên có trời dưới bể chứng minh/ Trao tay tạm gánh phương trình/ Thời gian ấn định Thiên đình đã ghi.” Cuộc tình duyên ấy thực sự đã đem lại cho Bà những tháng ngày hạnh phúc:
“Xưa còn lưu thủy cao san,
Nay đà gặp đặng tiếng đàn tri âm.
Đã nguyền đôi chữ đồng tâm,
Vu Sơn văn vẽ ai cầm đặng êm.”
(Trích “Vãn Bà”)
Kết quả của mối tình ấy là sự ra đời của hai người con cùng Thái tử:
“Đông qua xuân lại bên thềm,
Trước sau đã ứng đôi điềm xả bi.
Gái là Quý, Trí là trai,
Thiên hương một đóa, quỳnh chi một cành.
Chỉ lời hải thệ sơn minh,
Trăm năm cùng tạc chữ tình vào xương.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Nhưng cơ trời đã dịnh, thoắt cái đã mười chín năm làm vợ, làm mẹ với bao đắng ngọt cuộc đời, Bà đành phải trở về để làm tròn chữ hiếu và giúp dân theo sứ mệnh đã định trước:
“Chàng Thái Tử lòng thành khẩn nguyện,
Nhưng việc Trời diễn biến bất ngờ;
Chữ tình lạt lẽo tóc tơ,
Mười năm lẻ chín thờ ơ lạnh lùng.
Đã nhiều lần phân cùng Thái Tử,
Nhớ cha già xa xứ trời Nam;
Non sông cách trở bao hàm,
Tham thiền phụ mẫu tường am thác rồi.”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Với Nhân dân Bà đúng là bậc mẫu nghi đầy lòng nhân ái, vì thế mà Bà đã được Nhân dân hết lòng ngưỡng vọng:
“Quen thú cũ ngày vui tiêu sái,
Thấy dân trời ngây dại mà thương;
Ra tay sửa lại kỷ cương,
Dân vui đời trị ca xang thái hòa…
…
Khắp chín châu đâu đâu kính sợ,
Khẩn nguyền chi cứu trợ sinh linh;
Từ sau về chủ Chiêm Thành,
Dõi truyền hương hỏa đinh ninh phụng thờ.”
(Trích “Cổ tháp linh tích”)
Rõ ràng, trên nền tảng tâm thức tôn giáo, xuất thân và hành trạng của Thiên Y Thánh Mẫu đã được các tác giả khuyết danh những truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa khắc họa thành hình tượng nhân vật lý tưởng đậm chất tâm linh nhưng vẫn không xa lạ với đời thường. So với truyền thuyết về Thiên Y Thánh Mẫu thì hình tượng Bà trong “Sự tích Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” lung linh, sinh động và cảm xúc hơn nhiều. Đấy cũng chính là lý do vì sao đến nay những bài vãn, truyện thơ về Bà ở Khánh Hòa vẫn còn tràn đầy sức sống.
Với công đức cao dày ấy, Bà đã được Nhân dân Khánh Hòa tôn vinh là Thiên Y A Na Thánh Mẫu - Mẹ Xứ sở của miền đất “Xứ Trầm hương”.
3. Nghệ thuật kể chuyện
Cũng chính vì ra đời vào thời kỳ cuối của quá trình phát triển Truyện thơ Nôm, nên những truyện thơ, bài vãn tìm được ở Khánh Hòa cũng có một số điểm đặc thù, nhất là trong phương pháp sáng tác.
3.1. Truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”
Các nhà nghiên cứu văn học đã từng chỉ rõ thể loại truyện thơ nằm ở nhóm tự sự có pha yếu tố trữ tình. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì: “Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm bao giờ cũng có cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch”3 [1, tr 254 – 256]. Từ định nghĩa này, ta thấy tác phẩm “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” hội đủ các yêu cầu trên, như: Có độ dài đáp ứng được với thể loại truyện thơ; kết cấu cốt truyện theo trật tự thời gian - một phương pháp kết cấu thường thấy ở hầu hết các truyện thơ bình dân ở nước ta; hệ thống nhân vật và các chuỗi sự kiện chi tiết được sắp xếp hợp lý và được kể lại bằng thể thơ dân tộc. Từ đấy, có thể khẳng định tác phẩm trên là một truyện thơ - nằm trong dòng truyện thơ bình dân do một tác giả khuyết danh sáng tác (hoặc diễn âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ).
Tuy nhiên, nếu đọc tác phẩm trên, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy yếu tố trữ tình trong tác phẩm cũng khá đậm nét, chứ không thuần chất tự sự như những tác phẩm truyện thơ Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương, Phạm Công - Cúc Hoa. Mặt khác, mạch thơ cũng miên man theo cảm xúc của tác giả (nhân vật trữ tình), nên khó có thể chia một cách thật rạch ròi từng chương, đoạn. Và nhất là lại được viết theo thể thơ song thất lục bát, lại càng làm cho tác phẩm có phong vị của thể loại ngâm khúc, vãn. Diễn tả tâm trạng của “nàng Kỳ Hương” khi phải chấp nhận lời cầu hôn của Thái tử, truyện thơ viết:
“Tiếng yểu điệu thuyền quyên thanh thoát,
Nghĩ cuộc đời bể bạc phù vân;
Chẳng ưa duyên thế nợ trần,
Trò đời quán trọ giả chân đáng buồn …”
Khi trở lại quê hương, lòng Bà dấy lên bao nỗi cảm hoài:
“Ngắm núi cũ, cao sâu thăm thẳm,
Suối khắt khe muôn dặm quanh co;
Nước reo róc rách bên bờ,
Cỏ nương ghềnh đá nhấp nhô tiêu điều.
Rêu bám đá theo chiều nước chảy,
Uốn mình rồng múa máy nước đưa;
Trải bao thế hệ còn chờ,
Cảnh quê biến đổi ngẩn ngơ tấc lòng…”
Và đứng trước cảnh hôm nay lòng càng bồi hồi nhớ những ngày tháng cũ:
“Hồi tưởng lại đường nào ngày trước,
Ngẩn ngơ lòng rảo bước bâng khuâng;
Định tâm mơ tưởng trí tầm,
Làng xưa đường cũ dừng tâm tưởng hoài.
Bên thác nước một vài tảng đá,
Cây nghiêng mình chẳng lạ mắt xưa;
Mơ màng nhẹ bước lau thưa,
Quãng đường đã nhận vườn dưa trước ngày…”
(Trích “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang”)
Rõ ràng đã có sự phá vỡ ranh giới giữa “tự sự” và “trữ tình” và với phương thức ấy đã làm cho truyện thơ này thêm cảm xúc. Đấy cũng chính là nét đặc thù của truyện thơ ra đời ở thời kỳ mà lý ra nó phải “giã từ” thì mới đúng quy luật.
3.2. Những bài vãn ngợi ca Thiên Y Thánh Mẫu
Nếu Truyện thơ được các nhà lý luận văn học xếp vào loại tự sự thì Vãn ca được xếp vào loại được sáng tác theo phương thức trữ tình. Hơn thế nữa, ở nước ta thể hầu như chưa có một định nghĩa nào thật cụ thể về thể loại này và đôi khi còn quy đồng nó với thể loại Ngâm khúc4. Trong thực tế, nếu Truyện thơ ở nước ta có số lượng khá đồ sộ, thì ở thể loại Ngâm khúc số tác phẩm lại rất là khiêm tốn và số lượng bài vãn thì lại càng ít hơn nhiều. Trong mối tương quan ấy, những bài vãn đã tìm được ở Khánh Hòa phải chăng cũng là điều đặc biệt?
Trong những bài thơ trường thiên về Thiên Y Thánh Mẫu có tác phẩm mang tên “Vãn Bà” được Nhân dân xem trọng nhất. Đó là bài vãn dài 208 câu thơ lục bát kể về sự tích và ngợi ca công đức của Thiên Y Thánh Mẫu. Có thể nói “Vãn Bà” là tác phẩm thơ trường thiên được chuyển thể từ bài bia ký của cụ Phan Thanh Giản chép về sự tích Thiên Y Thánh Mẫu. Và ngay từ những dòng đầu tác giả đã nói rõ điều ấy:
“Cõi Nam vững đặt âu vàng
Mở mang từ thuở Hồng Bàng - Lạc Long
Có trời đất, có núi sông
Bồng lai phương trượng cũng vòng phong cương
Thần tiên là đấng âm dương
Khuất thân biến hóa khó lường mối thân
Thánh tuy chẳng nói quái thần
Xem câu vi đức hãy còn xem ghi
Nha Trang có chúa Thiên Y
Quan Phan Hiệp Biện truyện ghi đành rành…”
(Trích “Vãn Bà”)
Sau phần mở đầu, tác giả đã vào ngay phần câu chuyện: “Rằng: Bà vốn cõi thiên đình/ Đại An núi Chúa giáng sinh tiên đồng.” Sau đó, với phương thức tự sự tác giả đã kể một mạch toàn bộ sự tích của Bà trong 134 câu kế tiếp; đến đoạn cuối cùng, tác giả mới sử dụng phương thức trữ tình kết hợp với tự sự để viết tiếp những dòng ca ngợi công đức của Thiên Y Thánh Mẫu đối với Nhân dân Khánh Hòa. Với cách kể chuyện ấy, rõ ràng một lần nữa “Vãn Bà” đã cho thấy xu hướng muốn phá vỡ quy định về phương thức sáng tác trước đây, nhất là khi sử dụng thơ lục bát để sáng tác ngâm khúc, vãn ca thì yếu tố trữ tình càng giảm đi rõ rệt. Tất nhiên, chúng ta đều hiểu, nhân vật trữ tình ở đây chính là tác giả và do sự chi phối của cảm hứng tín ngưỡng nên “Vãn Bà” cần phải được xem như một biệt lệ.
Các tác phẩm khác như: “Cổ tháp linh tích”, “Thi Yên cổ tháp truyền kỳ diễn âm” và “Thiên Y Thánh Mẫu truyện ca” dù có mang những tiêu đề như truyện thơ, nhưng vẫn chỉ là những bài vãn với đầy đủ đặc thù của thể loại và cũng đều có xu hướng xóa nhòa ranh giới phương thức sáng tác tự sự và trữ tình như “Vãn Bà”. Tất cả những điều trên đã làm cho những bài vãn ở Khánh Hòa gần hơn với thể loại truyện thơ và truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” lại gần với thể loại ngâm khúc và những xu hướng sáng tác hiện đại. Đó chính là những đặc điểm riêng có của những truyện thơ, bài vãn mang đậm dấu ấn tâm linh ở Khánh Hòa vậy!
KẾT LUẬN:
Tục thờ Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa là kết quả từ quá trình cộng sinh, cộng cư của hai tộc người Việt - Chăm trên mảnh đất này; là sự hòa quyện của tục thờ Mẫu của người Việt có nguồn gốc từ đồng bằng Bắc Bộ - tài sản tâm linh được mang theo trên bước đường mở cõi về phương Nam với tục thờ Nữ thần Pô Inư Nagar của người Chăm để trở thành tín ngưỡng dân gian có sức ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tâm linh của người dân Khánh Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tục thờ này đã phổ biến rộng khắp và Khánh Hoà đã được mệnh danh là miền đất “Xứ Trầm hương” - không chỉ nơi đây có nhiều trầm mà chính để chỉ miền đất phát tích của huyền thoại về Thiên Y Thánh Mẫu. Và đấy cũng chính là nguồn gốc, cơ sở xã hội để sản sinh ra nhiều bài vãn và truyện thơ về Thiên Y Thánh Mẫu.
- Những truyện thơ và bài vãn ở Khánh Hòa đều được chuyển thể từ bài Bia ký do cụ Phan Thanh Giản viết về “Sự tích Thiên Y Thánh Mẫu” được Bố Chánh Khánh Hòa Nguyễn Quýnh cho khắc và đặt tại Tháp Bà Nha Trang vào năm 1856. Điều đó phần nào đã khẳng định được khoảng thời gian ra đời của các tác phẩm này là những năm đầu của thế kỷ XX - là thời gian mà các nhà nghiên cứu gọi là “thời kỳ giã từ của truyện thơ Nôm”.
- Các bài vãn và truyện thơ ở Khánh Hòa đều được viết về Thiên Y Thánh Mẫu trong tâm thức tín ngưỡng thờ Mẫu rất rõ rệt. Đặc biệt, truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” đã khắc họa cuộc đời và hành trạng của Thiên Y Thánh Mẫu có phần khác biệt với những truyền thuyết về Bà. Qua đó, cho thấy tác giả đã chịu sự chi phối khá mạnh của tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” mà trong đó yếu tố Phật Giáo là chủ đạo.
- Do ra đời trong giai đoạn thoái trào của thể loại truyện thơ Nôm nên phương thức sáng tác của các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa cũng không còn thuần chất như những tác phẩm cùng thể loại ở các giai đoạn trước. Đọc các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa chúng ta sẽ rất khó phân biệt được đâu là tác phẩm tự sự và đâu là tác phẩm trữ tình. Nói cách khác yếu tố trữ tình và tự sự đã hòa quyện vào nhau như một chỉnh thể không thể tách rời. Điều ấy làm cho các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa thêm giàu cảm xúc và gần với phương thức sáng tác các tác phẩm văn học viết sau này.
Ra đời trái chiều với quá trình phát triển chung của thể loại cùng sự phá cách trong phương thức sáng tác đã là những hiện tượng cá biệt và chính những điều ấy đã tạo nên những nét rất riêng cho các truyện thơ, bài vãn về Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa, góp phần làm phong phú hơn kho tàng văn học dân gian và tô đậm thêm bản sắc văn hóa “Xứ Trầm hương” vậy!
2. Kinh Văn Đức Thiên Y A Na Bồ Tát
(SỰ TÍCH ĐỨC THÁNH MẪU THÁP BÀ NHA TRANG)
Nam Mô Thiên Y A Na Bồ Tát Đại Từ Tôn
“Đời nhà Đinh Việt Nam Thánh đức, (01)
Tại Khánh Hòa Thiên lực chiếu phê;
Tây phương núi thẳm sơn khê,
Một làng Chàm ở nương kề đỉnh sơn cao.
Xét tiền kiếp được vào hiền đức,
Quán lục hòa giác thức minh thông,
Có đôi bầu bạn vợ chồng,
Năm mươi xuân chẵn ơn hồng mới ban. (08)
Bỗng thọ thai xóm làng cũng ngộ,
Đúng ngày giờ sanh sổ nữ nhi;
A Na tên đặt đã ghi,
Đêm sanh Thánh Nữ voi quỳ nào hay.
Trăm hoa nở vui say chào đón,
Muôn thú cầm tuyển chọn mừng vui,
Trăng thanh gió mát đượm mùi,
Cỏ cây chớm nở bướm vui ong chào. (16)
Cảnh gia đạo ngán ngao đói khổ,
Trong tháng ngày chiếc khố che thân.
Muối dưa khoai bắp độ thân,
Lá lau kết mái ẩn thân nắng chiều.
Dưới chân sàn xiêu xiêu vẹo vẹo,
Bước lên nhà eo ẻo như ru,
Mệnh chung cha bị đui mù,
Lìa trần con mới bốn thu chẵn hòa. (24)
Ở với mẹ côi cha hẩm hút,
Nghĩ thân cha nghi ngút lệ rơi,
Bông cây cưa rả hai rời,
Úp liền trở lại ấy rồi bó thân.
Khi lâm chung mình trần một khố,
Nghĩ mà buồn càng khổ phận con,
Mẹ đi hái lá thân bòn,
Đem về hạ - bạn chiều lòn bán mua. (32)
Đổi lấy muối, mắm chua, cá thối,
Cả đi về gần lối tháng tròn,
Ở nhà thui thủi mình con,
Tuổi xuân lên chín đi bòn bắp khoai.
Chiều một trái, sáng mai một củ,
Ở sơn cao vượn hú chim kêu,
Một hôm hái lá xa lều,
Mải mê kiếm trái lạc lưu dặm trường. (40)
Kiếm nhà mẹ kiếm đường càng khó,
Đêm canh dài phải bỏ leo cây,
Tạm an giấc ngủ đêm nầy,
Kiếm tìm làng cũ khó thay được nào,
Miệng van trời mắt trào lệ nhỏ,
Ở hư không thấy rõ phàm trần,
Quán Âm còn ngự trước sân,
Tam tòa Thánh Mẫu xem trần rõ thông. (48)
Đức Quán Âm hội đồng Tiên lại
Xe Long châu giáng hãy tức thì,
A Na Thánh nữ còn đi,
Ở nơi sơn cước cấp kỳ cứu ngay.
Ngài Thái Thượng đến đây gặp mặt,
Hóa tiều phu tay dắt con ơi,
Đi đây con hãy nghe lời,
Về cùng với lão có ngay cửa nhà. (56)
Đương đói khát mở ra trong bị,
Một trái đào năn nỉ con ăn,
Con đi, ông dạy con rằng,
Ăn rồi ông cháu tìm phăng đường về
Ăn đào ấy không hề đói khát,
Thấy trong lòng khoan khoái thung dung.
A Na lúp xúp theo Ông.
Về nơi dặm thẳng thấy đồng toàn dưa. (64)
Cây lúp xúp lưa thưa cổ thụ,
Nhìn vào vườn một chú lum khum,
Mình trần thân trụi khố đùm,
Bên vườn cổ thụ tỏa trùm bao la.
Đêm trăng tỏ gió hòa hương ngát,
Ở gốc cây nhà Bác con đây,
A Na trông thấy nhà này,
Có giường có chiếu đủ đầy tiện nghi. (72)
Thôi con ở Ông đi chút việc,
Đến khi cần Ông biết đến thăm,
Nói rồi bay vút xa xăm,
Thánh Na ở đó được nằm giường cao.
Qua buổi sáng ánh hào chiếu xuống,
Mở mắt nhìn chỉ luống đất không,
Trọi trơ với một cánh đồng,
Với cây cổ thụ trời hồng bao la. (80)
Núi xanh rì cửa nhà không có,
Dưới gốc cây chịu khó đình thiền,
Biết rằng số định ẩn thiền,
Âm dương thọ khí ngũ huyền căn khôn.
Đã sáu ngày đói lòng hơi mệt,
Đêm canh khuya nhẹ lết đến vườn.
Nguyện trời tay mới nhẹ nương,
Trộm ngay một quả ra vườn mới ăn. (88)
Cứ sáu ngày lại ăn một quả,
Ông tiều phu nghĩ lạ sao mà,
Vợ chồng cứ mãi thiết tha,
Tại sao nay lại thú mà phá dưa?
Đã yên ổn từ xưa đâu có,
Kể sanh ra tháng nọ đến nay,
Biết làm mưu kế sao đây,
Đêm khuya lén gót ban ngày trông nom. (96)
Cứ rình mãi chẳng còn bóng dáng,
Đã nản lòng hết hạn đốt than,
Sợ e lửa cháy than tàn,
Cửa nhà đóng bít băng ngàn núi cao.
Tối trở về cửa rào phên bít,
Cơm canh rồi để rít khắp mâm,
Xây quanh chẳng thấy tiếng tăm,
Cũng không bóng dạng ngồi nằm ở đâu. (104)
Áo khố giặt phơi sau hàng lối,
Nhà sạch trơn không chổi không người,
Ông Bà chặc lưỡi chao ôi!
Thôi thì ăn uống xong rồi lại đi.
Ngày với tháng cũng thì như thế,
Cứ đành lòng mặc kệ dù sao,
Một hôm Thánh nữ xuất hào,
Canh ba giờ Tý định trao ngũ hành. (112)
Dưới gốc cây chứng thành thiền định,
Ngồi nghiêm trang để thỉnh hào quang,
Tiều phu lén gót nhẹ nhàng,
Đi ra đến đó lỡ làng A Na.
Lúc mãn định mở ra đôi mắt,
Thấy tiều phu khó thật biến hình,
Đứng liền vái với thiêng liêng,
Vô tình lộ liễu cha hiền đã trông. (120)
Tiều phu hỏi sao không biết lạnh,
Con ở đâu đến đỉnh núi này,
Phải chăng Tiên Thánh gì đây,
Phải chăng lão bị thường ngày mất dưa.
Ung dung lời gửi thưa kể lể,
Sự trước sau nửa kể nửa chừa,
…
Xin cha tha thứ cha vừa bao dung. (128)
Tiều gạn hỏi ngại ngùng nửa sợ,
Thấy dáng hình Tiên nữ nào sai,
Tóc xanh màng mịn mày ngài,
Khuôn dung đầy kín miệng khai hoa cười.
Nhìn nét mặt hoa tươi còn oán,
Răng trắng trong ngọc loáng còn ghen,
Nước thu dám sánh phận hèn,
Mũi rồng tai Phật hoa sen mắt nhìn. (136)
Thấy diện mạo Thánh Tiên giáng hạ,
Xin làm con tiều há dám nuôi,
Thưa cha việc cũng tự trời,
Thọ ân trả nghĩa ở đời với cha.
Tuy không sanh cũng là người dưỡng,
Không sanh thành cũng hưởng như sanh.
Đôi hàng nước mắt long lanh,
Con đà ý nguyện cũng đành phận cha. (144)
Từ đây con cái ruột rà,
Con đi với bố về nhà mẹ con,
Đi ba giờ bóng tròn mới đến,
Nữ tiều phu vội đến hỏi han.
Con ai lạc lối giữa đàng,
Về theo lẽo đẽo với chàng vào đây.
Tiều ngồi xuống đầu giây kể lể,
Nữ tiều nghe sự thể thương thay. (152)
Tình mẫu tử ngày nay quyến luyến,
Cơ duyên trời lòng khiến thâm giao
Ngày, năm tin cậy ra vào,
Đêm trường tay gối ai nào còn hơn.
Bền tâm chí không sờn tấc dạ,
Ở sơn lâm cô quả nhất gia,
Tình thâm hơn thiệt giao hòa,
Sưởi lòng ấm lạnh sương pha lạnh lùng. (160)
Sự sanh kế tháp tùng sài thán,
Ngoài vườn dưa không lãng vun trồng.
Ở nhà con gái nom trông,
Tiều phu tất cả vợ chồng đốt than.
Ngày về trại đàng hoàng mọi việc,
Nước tưới dưa thực thiết đều thành.
Có thần ở tại non xanh,
Lấy mây phun nước phụng hành công phu. (168)
Tiều thắc mắc khó tu được tánh,
Mỗi lần về sân tránh khó vào,
Đá chồng non bộ thật cao,
Xây thành tráng lệ như vào động Tiên.
Có Quán Thê ngồi yên bằng đất.
Có chư tiên ngồi chật bằng tre,
Bày ra tất cả sân hè,
Vì lòng mơ tưởng trí e định thành. (176)
Tiều tức giận dẹp nhanh cũng khó
Bốn năm ngày chẳng có như xưa
La hoài Thánh mẫu chẳng chừa,
Dẹp đi, làm lại cho vừa ước ao.
Cứ thế mãi tiều trào cáu tiết,
Lần cuối cùng sắm niệt chặt roi,
Nhìn cha tức quá đi rồi,
Lánh thân bụi rậm tìm nơi náu mình. (184)
Tiều ráo riết quyết tình tìm kiếm,
Thánh sợ đòn mới tiến lên cây,
Kỳ nam vốn ở tại đây,
Ngồi cao than khóc việc nầy phải xa.
Lời thấm thiết canh ba thanh vắng,
Ở Hư không lời đặng am tường,
Đại Tiên cưỡi hạc một phương,
Giáng trần tức khắc mở đường thần thông. (192)
Bão thần kíp tạo phong lẫm liệt.
Đưa Thánh A làm việc tức thì,
A Na lại với cây Kỳ,
Bay ra bể cả chiếu y luật Trời.
Cưỡi Kỳ Hương ngàn khơi lướt gió,
Xuôi theo dòng từ đó quan sơn,
Mặc cho sóng gió chập chờn,
Tấp về bãi bể thanh sơn cát vàng. (200)
Nơi Bắc Hải ngự an tại đó,
Tiết trời thu thoáng gió hương bay,
Muôn dân hưởng gió lạ thay,
Mùi thơm phảng phất như say sắc trời.
Tiếng đồn đã về nơi Cung Điện,
Vua nhận lời thực tiễn bấy lâu,
Trẫm đây cũng hưởng được mầu,
Hương đưa gió thoảng bấy lâu rõ ràng. (208)
Triều đình thần ba ngàn văn võ,
Tiếng chuông rung đèn đỏ Hoàng cung.
Lệnh truyền hạ ấn cửu trùng,
Bá quan văn võ tưng bừng xôn xao.
Ra bãi bể ấn trao phụng sắc,
Lấy Kỳ Hương chở phắt vào cung,
Ba trăm quân lính tháp tùng,
Thuyền rồng đỏ bể, trống rung rợp trời. (216)
Cứ kéo mãi chẳng rời phân tấc,
Vẫn nằm yên thơm ngất lạ thường,
Trở về tâu với Quân Vương
Hạ thần khong thể suy lường thế nao.
Vua bực tức ra vào trước bệ,
Hạ lệnh truyền tiếp tế quân gia,
Đương khi điều nghị trước tòa,
Thì ngôi Thái Tử bước ra tiền đình. (224)
Lạy Vương phụ rộng tình phê sắc,
Vâng lời vàng ra mặt dẫn quân
Ba trăm lính dấu theo chân,
Ra ngay bể cả tay nâng Hương Kỳ.
Nước sóng đẩy đưa đi như gió,
Lên quá bờ chẳng có bao quân,
Đưa xe chở lẹ quá chừng,
Về nơi cung điện dửng dưng lạ thường. (232)
Vua mừng rỡ lòng thương Thái Tử,
Tài trí cao được chữ bội châu.
Lệnh truyền quan tướng đến hầu,
Tả văn, hữu võ bệ châu rạng ngày.
Khai linh địa tại đây trồng trước,
Đẹp vẻ xinh để được hương xa,
Sau cờ trước cửa cung gia,
Truyền quân săn sóc thường là nước luôn. (240)
Nhưng cũng lạ cây thường tươi tốt,
Lá xanh xao không một sắc nào,
Hương đưa thơm ngát thanh tao,
Vua thường ngự uyển rượu đào đêm trăng.
Ngôi Thái Tử cũng hằng canh vắng,
Tửu với thi say đắm đờn ca,
Canh tàn gió nhẹ sương pha,
Mơ màng giấc điệp canh ba nhiều lần. (248)
Cơ duyên ngộ cho trần ngắm dạng,
Tác yêu kiều vô hạng trần gian.
Sương bay hương ngát mơ màng,
Hình dung lộ vẻ một nàng Tiên nga.
Nhìn diện mạo như là Phụng cát,
Nét cung mi như tạc gương thiên,
Long lanh đôi mắt diệu huyền,
Lấy tay vời nguyệt chim Uyên gọi bầy. (256)
Áo nguyệt bạch ngón tay yểu điệu,
Dáng thướt tha bóng liễu còn ghen,
Môi son, hoa thắm kém hèn,
Răng trong lóng lánh ánh đè còn thua.
Da trắng mịn như mùa thu thủy,
Tuyết lộng gương còn úy khuôn trăng,
Tóc mây xanh tợ thiên vân,
Nhìn trông mọi vẻ thế trần chưa ai. (264)
Chàng Thái Tử lòng hài ước mộng,
Mới vội vàng mãnh dõng đến ngay,
Nghiêng mình nâng lấy cánh tay,
Tấm thân ngà ngọc đến ngày ngộ duyên.
Tiếng yểu điệu thuyền quyên thanh thoát,
Nghĩ cuộc đời bể bạc phù vân,
Chẳng ưa duyên thế nợ trần,
Trò đời quán trọ giả chân đáng buồn. (272)
Dù sông ngòi về nguồn nguyên thủy,
Nợ trần phàm trược khí đó thôi,
Lòng thương trần hạ lắm rồi,
Muốn về độ thế đắp bồi cơ duyên.
Phải chung gối trần phiền trả nợ,
Nét u buồn than thở dưới cây,
Hình dung ngà ngọc dạn dày,
Gửi hồn theo mộng ở đây với trần. (280)
Tiếng gió reo hòa than hương ngát,
Mở lời vàng chưa nhạt nét hoa,
Một lời Thái Tử thiết tha,
Nguyện trời kết tóc tiên nga đến cùng.
Lời Tiên nữ ung dung e lệ,
Trên có Trời dưới bể chứng minh,
Trao tay tạm gánh phương trình,
Thời gian ấn định Thiên đình đã ghi. (288)
Máy tạo hóa siêu kỳ ai thấu,
Sắc Thiên điều kết cấu nên tình,
Phụ Vương truyền lệnh tướng binh,
Lễ nghi trọng đại triều đình cầu hôn.
Cờ rợp đất trống cồn khắp nước,
Chiêu Quốc kỳ tha thướt tung bay,
Tiệc mừng nâng chén vui say,
Lệnh truyền quốc lễ năm ngày nghỉ ngơi. (296)
Nàng Tiên nữ duyên trời Thái Tử,
Lệnh cung phi đủ thứ đờn ca,
Múa bông hát xướng tiệc trà,
Mỗi làng thiết lập môn hoa tưng bừng.
Tỏ lòng thành kính vui mừng Thái Tử,
Lễ tất thành rước ngự vào Cung,
Tơ hồng hầu hạ tháp tùng,
Duyên trời dệt gấm nổi bùng bướm hoa. (304)
Tình đầm ấm giao hòa thanh thỏa,
Liền thọ thai cũng đã vui mừng,
Đến khi nở một hoa cưng,
Lựa danh là Quý tiệc mừng đầu nam.
Cung Thái Hòa thiền tham luyện phá,
Phật Quán Âm giao nạp huyền vi,
Năm sau thọ tiếp một kỳ,
Khai hoa nở nhụy Trí thì điểm danh. (312)
Chàng Thái Tử lòng thành khẩn nguyện,
Nhưng việc Trời diễn biến bất ngờ,
Chữ tình lạt lẽo tóc tơ,
Mười năm lẻ chín thờ ơ lạnh lùng,
Đã nhiều lần phân cùng Thái Tử,
Nhớ cha già xa xứ trời Nam,
Non sông cách trở bao hàm,
Tham thiền phụ mẫu tường am thác rồi. (320)
Nhưng Thái Tử không rời xa cách,
Cũng lạ thay thi hạch lòng trần,
Một hôm Thái Tử đi săn,
Quân gia hầu hạ núi băng dặm trường.
Trí và Quý nằm giường với mẹ,
Trướng phụng loan quạnh quẽ hơn thua,
Muốn đi thăm ngoại một mùa,
Làm sao lén gót chát chua bể trời. (328)
Con nghe mẹ những lời áo não,
Nếu mẹ đi, mạnh bạo cũng theo,
Cấp cung gió thoáng heo heo,
Kỳ Hương rủ lá ngả theo thuận chiều.
Dắt hai con Quý yêu lên đó,
Trời chuyển mình nổi gió lạ thường,
Bay theo người với Kỳ Hương,
Mặc cho dòng nước tỏa vương sóng lòa. (336)
Bể Nam Hải, Khánh Hòa ghé lại,
Bước lên bờ nơi bãi Ha Ra,
Kỳ Hương tách hẳn ngàn ra,
Bay cùng đất Việt sơn hà ương gieo.
Con với mẹ lên đèo xuống ải,
Hai ngày trường đến bãi Đồng Dưa,
Đại An nhìn bóng ngày xưa,
Toàn là bụi rậm gió mưa dãi dầu. (344)
Ngắm núi cũ, cao sâu thăm thẳm,
Suối khắt khe muôn dặm quanh co,
Nước reo róc rách bên bờ,
Cỏ nương ghềnh đá nhấp nhô tiêu điều.
Rêu bám đá theo chiều nước chảy,
Uốn mình rồng múa máy nước đưa,
Trải bao thế hệ còn chờ,
Cảnh quê biến đổi ngẩn ngơ tấc lòng. (352)
Ngồi than thở với dòng suối bạc,
Đá ngày xưa phai lạt hương thiên,
Chập chồng ghềnh đá ngửa nghiêng,
Cỏ lau chen lấn bên triền núi cao.
Hồi tưởng lại đường nào ngày trước,
Ngẩn ngơ lòng rảo bước bâng khuâng.
Định tâm mơ tưởng trí tầm,
Làng xưa đường cũ dừng tâm tưởng hoài. (360)
Bên thác nước một vài tảng đá,
Cây nghiêng mình chẳng lạ mắt xưa.
Mơ màng nhẹ bước lau thưa,
Quãng đường đã nhận vườn dưa trước ngày.
Lòng ảo não như say như tỉnh,
Nhìn nhà tranh biết định là đâu,
Thấy nền sương tuyết dãi dầu,
Cỏ mây đang phủ nơi đây xanh rì. (368)
Chỗ cỏ thưa lại thì mọc nấm,
Cây sườn nhà đã thấm phong sương.
Thoáng nhìn những hướng vách tường,
Đều là mục nát tang thương bao giờ.
Nơi miếu cổ phụng thờ ngày trước,
Đã tơi bời chẳng được hình dung,
Than ôi, dâu bể lạ lùng,
Sau vườn mộ sỏi bao trùm rêu phong. (376)
Hai gò sạn đất hồng hoà lẫn,
Đứng nghiêng mình nguyện khấn mẹ cha.
Vắng tanh hương khói trầm hoa,
Nghĩ đời thêm chán ai mà hay đâu.
Hồn thân phụ lời cầu hưởng ứng,
Có linh thiêng hãy chứng lòng con,
Gió đưa thấp thoáng bóng tròn,
Bướm vàng bay lượn hai con trên đầu. (384)
Vì lệnh trời quên câu hiếu tử,
Chuyện lỡ lầm tha thứ cho con.
Bấm tay mười chín năm tròn,
Liễu bồ phận gái không tròn hiếu trung.
Nay con nguyện ở cùng mộ địa.
Xin xây lăng hiếu nghĩa tấc lòng,
Đêm ngày hương thoảng đèn chong,
Vườn dưa sửa lại vun trồng mộ dân. (392)
Nhà hướng cũ cải tân thờ vọng,
Mái nhà tranh cửa đóng thờ cha,
Cùng chung với mẹ một nhà,
Đêm ngày thờ phụng hương hoa trọn niềm.
Trong ba năm điền viên trù phú,
Dạy dân làng cũng đủ lễ nghi,
Một hôm nhận sắc lạ kỳ,
Phải về Cung điện Thiên Y Ngọc Hoàng. (400)
Lòng quyến luyến hai hàng lệ ngọc,
Thương hai con săn sóc nào ai,
Bâng khuâng suy nghĩ ái hoài,
Thiên đình lệnh chỉ trần ai trễ giờ.
Ngôi Thái tử nằm chờ phụng gấm,
Nhớ vợ con ruột thảm gan khô,
Định ngày Hán phải gặp Hồ,
Thuyền rồng năm chiếc kinh đô khởi hành. (408)
Vây binh mã bao thành núi Chúa,
Lệnh cực kỳ gươm múa súng dao,
Thiên binh vạn mã đầy trào,
Đến đây bắt hết đưa vào thuyền khơi.
Dạy hai con cứ thời ở đó,
Tướng binh gia đừng có sợ lo,
Mấy lời mẹ đã dặn dò,
Tướng hùng binh dõng cứ cho là thường. (416)
Mẹ lánh mặt khỏi vườn ra núi,
Nó đến nơi biết mối manh nào,
Con rằng nó bắt làm sao?
Nếu mà phi lệnh, mẹ nào để an.
Qua ngày mai ánh vàng rọi xuống,
Tiếng kèn tung thấy cuốn phách hồn,
Tiếng quân vũ bão dập dồn,
Bốn bề binh mã kiếm côn áp vào. (424)
Ngôi Thái Tử bước vào thịnh nộ,
Ôm lấy con liền dỗ thương yêu,
Mẹ con, con hãy đánh liều,
Chỉ bày tức khắc thuận chiều về quê.
Trí và Quý không hề ngần ngại,
Đã lâu rồi mẹ hãy đâu còn,
Ở đây chỉ có hai con,
Tháng ngày hẩm hút sanh tồn với dân. (432)
Lời của cha con thân bất tín,
Trong ba giờ dấu kín A Na,
Lệnh truyền sắc chỉ quân gia,
Làng này phóng hoả con ta bắt về.
Trí cùng Quý không hề nao núng,
Đã hết giờ lệnh súng rầm vang,
Một làng lửa cháy ra than,
A Na xuất hiện vội vàng bày phô. (440)
Giữa tình cảnh con cô mẹ giá,
Tướng với quân đứng cả giáp xiêm,
Lửa than đỏ rực không hiền,
Đứng gần con, vợ, tự nhiên hạ mình.
Vì cảm ái đăng trình vạn lý,
Nhớ vợ nhà, Quý, Trí chạnh thương,
Băng hà cưỡi hạc phụ vương,
Kế ngôi tức vị một phương bao trùm. (448)
Ngôi Đế Vương anh hùng nhất nước,
Muôn Tướng quân, Bá tước, Quận công,
Khấn đầu phục bái ân hồng,
Lời tâu Bệ hạ thân rồng là anh.
Cung tráng lệ, long lanh bát ngát,
Trân châu vàng như cát thiếu chi,
Lệnh truyền muôn vạn phải y,
Thiếu gì ngọc bội lưu ly xem thường. (456)
Xa Long Phụng tiền đường ngự giá,
Cửa Cung Vương tất cả rồng leo,
Tả Văn, hữu Võ vâng theo,
Một lời truyền phán y theo ấn vàng.
Về hưởng thú cùng chàng với thiếp,
Để gia đình sum hiệp vui vầy,
A Na mới đáp lại đây:
Đành rằng chung gối một ngày trước tiên. (464)
Lòng bác ái trọn nguyền độ thế,
Đem chúng sanh nhất thể đoàn viên,
Năm năm đã chịu trần phiền,
Ánh trăng lộng nước hồn Tiên mơ màng.
Vì thiền định phím đàn đã gảy,
Lòng trần gian khó thấy Thiên cơ,
Nào ai đã rõ chữ ngờ,
Trước kia là Thiếp, bây giờ là không. (472)
Đừng vật báu vàng vòng cảm hoá,
Đừng tưởng Vua khỏi đoạ trầm luân,
Buộc ta, ta sợ quá chừng,
Thì ngươi phải sợ thế nhân xoay vần.
Đã từ biệt nợ trần ảo mộng,
Dứt ân tình, tuyệt đóng tình sy,
Thiên sơn vạn lý cỡi kỳ,
Thì ngươi dù có nói gì, chẳng nghe. (480)
Dạy cùng ngươi dặt dè tâm lại,
Nếu còn mê thì hãy nối tơ,
Thiếu chi tuyệt sắc mong chờ,
Vương hầu, Bá tước ngẩn ngơ khóc thầm.
Đừng thiết tưởng mà lầm duyên kết,
Đến ngày nay tình hết mộng tan.
Đắng cay Thái Tử trề tràn,
Nổi cơn thịnh nộ lệnh ban tướng rồng. (488)
Triệu Thánh Na vào trong xe gấm,
Còn hai con cũng ẵm vào trong,
Mắt ngoài thì thấy uy phong,
Bên trong nhìn rõ như còng không giây.
Lệnh áp giải, truyền đầy binh tướng,
Cờ tung bay như phướn thướt tha,
Kèn chào trống giục quân gia,
Rước về Hoàng hậu A Na xuống thuyền. (496)
Nhưng lạ thay, ngồi yên tề chỉnh,
Ý phát nguyền vọng thỉnh Thiên cung,
Bến xưa đã đến tận cùng,
Thuyền rồng năm chiếc cờ tung rợp trời.
Quân gia tướng phân thời bốn đạo,
Đứng oai hùng diện mạo nghiêm trang,
Cung tên ráp sẵn gươm đàn,
Lệnh khai phóng hoả trời Nam long trời. (504)
Hạ kiệu xuống vừa nơi thuyền gấm,
Lũ thị tỳ đặt tấm ván châu,
Lệnh vâng Bệ hạ cúi đầu,
Nghiêng mình sát ván gót châu xuống thuyền.
Trí và Quý cũng liền với mẹ,
Trướng gấm loan sạch sẽ đẹp thay,
Cung phi hầu hạ bưng khay,
Trà dâng rượu rót mừng ngày tái lai. (512)
Việc trù liệu cũng vài phút sẵn,
Lệnh ấn vua đã bắn ầm ì,
Đó là sắp sửa ra đi,
Lệnh ban neo nhổ cũng thì tới nơi.
Mây vần vũ đầy trời ngũ sắc,
Tiếng sét đông như cắt lòng trần,
Bỗng đâu có đám thanh vân,
Phủ loà năm chiếc thuyền trần tướng binh. (520)
Đứng như đá thất kinh bất tỉnh,
Binh tướng trời vâng lệnh Thiên Y,
Bắt trần binh mã tức thì,
Giao tranh lẻ tẻ Thiên Y biến hồn.
Trí và Quý dập dồn theo mẹ,
Ở thế gian ít kẻ rõ ràng,
Thuyền rồng năm chiếc nghênh ngang,
Binh rồng tướng mã thẳng đường tìm khơi. (528)
Người thế gian cũng thời trông thấy,
Cứ xầm xì mẹ hãy chìm luôn,
Có đâu đã hiểu ngọn nguồn,
Ba ngày sau lại thường luôn về trần.
Trên chóp núi nhiều lần hiển hiện,
Từ trời cao ánh viễn xanh trong,
Toạ luôn ở cảnh trần hồng,
Về nơi núi Tháp người trông rõ ràng. (536)
Trong khi đó người Chàm bổn tánh,
Nguyện xây đài lập hạnh gieo duyên,
Tháp cao đỉnh núi non triền,
Phụng thờ Thánh Mẫu đoàn viên con cùng.
Từ thuở ấy hình dung hiển hiện,
Nước non nhà diễn biến cực đoan,
Làm cho trần thế bàng hoàng,
Bao dung diệu pháp độ an thế trần. (544)
Mẹ ngán thay kẻ trần điêu xảo,
Dụng lộc Trời lấy Đạo bán tiền.
Trước ngày Mẹ đã phẩm Tiên,
Mà nay Bồ Tát độ miền trần mê,
Trước giao duyên ở Tề Bắc hải,
Nay về Nam được hái lộc Thiên,
Hiện giờ Nam Hải tự nhiên,
Mà trần lầm tưởng Thánh Tiên mãi hoài. (552)
Không tự tỉnh miệt mài tri kiến,
Lễ sát sanh mượn tiếng để an,
Đem dâng tất cả ruồi lằn,
Mẹ buồn nên mới phải băng về Trời.
Lòng khẩn nguyện lập nơi Kim tự,
Để độ trần nhất cử lưỡng nghi,
Dạy trần giáo pháp bút thi,
Độ trần giác thức kịp kỳ hạ nguyên. (560)
Cũng thường viếng Đại Điền chốn cũ,
Cũng hiển thân khắp phủ nước Nam,
Từ bi bác ái phải làm,
Có hồi hiển xác thế gian chợ đò.
Thánh cũng muốn hiện cho trần thấy,
Nhưng khó lòng lộ máy Thiên cơ,
Hoá nên dụng lấy kim cơ,
Ngỏ lời dạy bảo phụng thờ Phật Tiên. (568)
Việc Bồ Tát hậu tiền diễn tả,
Muốn dọn văn thật đã gọn gàng,
Thương cho trí của trần gian,
Cũng là bỏ bớt nhiều hàng căn nguyên.
Trước Kim tự bệ tiền bày tỏ,
Hạc long xa ngoài ngõ đợi chờ,
Đến đây dừng bút Kim Cơ,
Chào cùng môn đệ đến giờ phải thăng.” (576)
Chí tâm triều lễ:
Nam Mô Thiên Y A Na Bồ Tát Đại Từ Tôn
(Niệm 3 lần và lễ 3 lễ)
Chí tâm sám lễ:
Nam Mô Thiên Y A Na Bồ Tát Đại Từ Tôn
(Niệm 3 lần và lễ 3 lễ)
Chí tâm tạ lễ:
Nam Mô Thiên Y A Na Bồ Tát Đại Từ Tôn
(Niệm 3 lần và lễ 3 lễ)
Truyện thơ “Đức Thánh mẫu Tháp Bà Nha Trang” do Ban quản lý miếu Bà Thánh Mẫu (xã Diên Hòa) và Ban quản lý đình Hội Phước (miếu Bà) (xã Bình Lộc) cung cấp.
3. Văn kể sự tích Đức Thiên Y A Na Thánh Mẫu
Thuở tiên giới sầu bi đưa tiễn
Đấng tiên nga hạ xuống trần gian
Trăng sao lấp ló ngỡ ngàng
Chín tầng mây cũng buông màn rủ che
Hoa hạ giới lắng nghe tin Thánh
Khúc nghê thường rực ánh hào quang
Đại An non nước mơ màng
Vườn dưa nghênh đón một nàng tiên sa
Bình minh rọi nắng chan hòa
Núi nghiêng cây ngả chim ca hoa chào
Nhìn cảnh vật xôn xao lạc bước
Ngắm vườn dưa gặp cụ già
Nhà nghèo năm tháng đi qua
Tiên làm nghĩa nữ, cha mẹ già cô liêu
Lo toan thu vén mọi điều
Buồn vui lối xóm, sớm chiều có nhau
Hôm nàng nghịch xây lầu tháp cát
Nhớ tam thanh gió mát mẹ rầy
Nỗi buồn lan tỏa cỏ cây
Đếm từng chiếc lá chau mày nghĩ suy
Hồn tiên thêm nặng nghĩa nghì
Mưa giông, sấm đổ, nàng đi giữa trời
Tạ từ lều cũ đơn côi
Hóa thân trầm quý mà trôi giữa dòng
Xuôi biển biếc mênh mông sóng dữ
Phận đẩy đưa biển Bắc sông Tô
Gặp hôm hội sóng đôi bờ
Hoa đăng thuyền lướt vật vờ gỗ trôi
Bao người xem xét một hồi
Biết đây gỗ quý nạp nơi vương triều
Khiêng mà chân ngã liêu xiêu
Trăm ngàn quân lính ra điều hãi kinh
Cây hiển linh giữ mình không chuyển
Ngự lâm quân vội báo thuyền rồng
Thoạt nhìn như thể hằng trông
Cả người lẫn gỗ những mong có ngày
Thái tử vội vã đưa tay
Ôm lấy gỗ quý! Ô hay lạ kỳ
Nhẹ như hoa độ xuân thì
Trong vòng tay hướng kinh kỳ hồi cung
Lòng Thái tử vui mừng khôn xiết
Đặt gỗ trầm riêng biệt tư dinh
Ngắm cây như thể duyên tình
Bỏ mặc mỹ nữ, một mình suy tư
Nhạc vui ngài cũng giã từ
Mơ màng như thể mộng du hương trầm
Đêm hoa đổ thì thầm thái tử
Gỗ quý huy hoàng tiên nữ hiện ra
Hai vầng ánh sáng chói lòa
Thái tử mừng quá vội ra đón chào
Niềm vui chả được là bao
Vẫn cung vi lạnh, đèn hao canh gầy
Rồi ngài quyết từ đây không ngủ
Đặng canh chừng tiên nữ bước ra
Một đêm vắng lạnh canh ba
Nhạc thần trỗi khúc từ xa vọng về
Nàng tiên trong gỗ đề huề
Bước đi nhẹ tựa cung nghê thanh bình
Ôi đẹp bấy lung linh ánh mắt
Nụ cười xinh, suối tóc thiên thai
Da hồng mịn tựa nắng mai
Cả trong vũ trụ khó sai sánh tày
Nhìn nàng sửng sốt phút giây
Thái tử chạy đến … từ đây lộ rồi
Phép màu nhiệm cơ trời đâu để
Trai trần gian được thấy gái tiên
Ôi thôi đã lộ phép huyền
Phải chăng cũng bởi nhân duyên đặt bày
Trai tài gái sắc từ đây
Tiên trần như thể đợi ngày bên nhau
Thái tử vẫn làu làu thi phú
Cùng tiên nga ca, vũ, họa, vần
Vương triều vui tỏa muôn dân
Thạnh hành lạc nghiệp vạn phần vinh quang
Duyên tình ngắn chửa tày gang
Chim quyên gọi bạn, hè sang, thu về
Từ ngày nên nghĩa phu thê
Hôn nhân đôi lứa cận kề tám năm
Đã sinh hạ hai con tươi thắm
Cậu Trí đầu, thật lắm tài cao
Mặc người tướng mạo thanh tao
Thứ là cô Quý, hoa nào cũng thua
Như thời biết mấy cho vừa
Ở sung sướng đó, lòng chưa thỏa lòng
Quê nhà điệu hát hằng mong
Lời ru của mẹ cánh đồng ruộng dưa
Dù đang ở cung vua, phủ chúa
Nhớ lều tranh mong thuở quay về
Đất người đâu phải đất quê
Dẫu sang trọng đấy, đất quê hơn nhiều
Cùng chồng phân tỏ mọi điều
Hoàng tử cảm động lòng xiêu ý nàng
Rồi đồng ý con mang về nước
Để mẫu nhi sau trước vẹn toàn
Bồng bềnh biển biếc mênh mông
Mới chia tay đó lại đang nhớ chồng
Biết rằng sắc sắc không không
Thần tiên còn vậy hồng trần ra sao
Cửa Cù Huân xôn xao sóng nước
Đất quê nhà nàng rảo bước chân
Vội vàng hỏi khắp trong dân
Rằng đâu cha mẹ đỡ phần nhớ nhung
Mọi người nói đã từng chung sống
Ông bà Tiều khuất bóng dương gian
Hoàng thiên sao quá phũ phàng
Hỏi dân chỉ hộ mộ quàng nơi đâu
Cành cây ngọn cỏ thêm rầu
Mẹ con lụy đổ dạ sầu nặng mang
Lễ hiếu tang nàng cần làm trước
Để thỏa câu dưỡng dục sinh thành
Mộ phần đặt núi Đại An
Công ơn cha mẹ con mang suốt đời
Hương trầm khói tỏa chơi vơi
Gối quỳ, tay chắp, khó rời bước chân
Sau khi yên nấm mộ phần
Nàng cùng con trẻ thăm dân khắp vùng
Gặp nhau tủi tủi mừng mừng
Bày dân xuống biển, lên rừng kiếm ăn
Dạy cho cách chăn tằm dệt vải
Biết đồng lòng sống mãi có nhau
Người mà không phải ốm đau
Biết tìm cây thuốc ăn rau hàng ngày
Khơi dòng nước chảy xanh cây
Chiêm mùa đôi vụ dân cày ấm no
Lại tìm đám học trò văn võ
Học kiếm cung thông tỏ sử nhà
Lụa đây xin tặng người già
Mở tao đàn hội thi ca luận vần
Ra khơi đã có ngư thần
Là ông Nam Hải cứu dân thoát nghèo
Muôn dân hết gieo neo thống khổ
Nhờ Tiên Nương tế độ chúng sinh
Một hôm lệnh ở Thiên Đình
Mẹ con Tiên phải dứt tình trần gian
Hãy mau về chốn Thiên đàng
Nếu mà chậm trễ phải mang tội hình
Ra đi Tiên nguyện lòng mình
Đại An non nước nghĩa tình không phai
Vợ chồng đã duyên hài sớm tối
Đành không về mắc tội phu quân
Bà con lối xóm xa gần
Thôi từ nay nhé, rẽ phân hai đường
Mẹ cha phần mộ xót thương
Nhờ dân chăm sóc khói hương sớm chiều
Đi Tiên dặn dân điều sau trước
Để sau này tạo phước nhân gian
Núi sông cây cỏ đại ngàn
Bà con lối xóm hai hàng lệ rơi
Chia tay Tiên trở về trời
Lòng dân như thể mất nơi mẹ Hiền
Từ biển Bắc triền miên trông ngóng
Đã bao Thu không bóng vợ về
Nội tình Thái tử tái tê
Dong thuyền vượt biển bắt hiền thê quay đầu
Lính triều với bát xà mâu
Tràn qua sông Cái hỏi đâu vợ hiền?
Đâu rồi con của thần tiên?
Tại sao dân chúng gây phiền giấu đi
Dân có nói, hắn tin chi được
Cứ khăng khăng một mực khảo tra
Quân đông ỷ thế đốt nhà
Ra tay tàn sát đâu là nghĩa nhân
Bất ngờ nên khổ người dân
Cao xanh mẹ thấy muôn phần xót xa
Mẹ thương dân khóc nhạt nhòa
Chúng sinh kêu động tam tòa Thánh cung
Hoàng thiên cũng đùng đùng nổi giận
Quyết dẹp phường tán tận lương tâm
Mẹ liền hoán vũ đằng vân
Hô mây gọi gió đuổi quân Bắc triều
Cù Huân thuyền giặc đắm nhiều
Nổi hòn Thạch bệ ra điều hiển linh
Giặc dù ỷ lắm tinh binh
Núi rừng có mẹ dân mình đứng lên
Đại An non nước vững bền
Hòn Chồng, hòn Đỏ sóng lên sớm chiều
Hiếu trung vẹn cả đôi điều
An bình dân quốc sáo diều vút cao
Từ đỉnh núi cúi chào bá tánh
Cưỡi mây từ đất Thánh về Tiên
Biết rằng tiên vẫn là tiên
Nhưng dân coi thể mẹ hiền nhân gian
Tình thương xa mẹ vô vàn
Bàn nhau lập miếu cũng mang tên Người
Núi mẹ đến tức thời núi Chúa
Tháp Cù Huân muôn thở phụng thờ
Khánh Hòa non nước như mơ
Càng nhìn, càng ngắm, càng ngơ ngẩn tình
Mẹ Thiên Y A Na anh linh vô hạn
Mẹ Thiên Y A Na sức mạnh vô thường
Hỡi ai gặp khổ tai ương
Tu tâm gọi Mẹ, Mẹ thường giải cho
Hỡi ai sống sầu lo khốn khó
Dưỡng tánh là có Mẹ linh thiêng
Tình đời của Mẹ vô biên
Giải đi mọi nỗi ưu phiền trong con
Nước non còn đó, Mẹ còn
Hai con của Mẹ vẫn còn hiển linh
Công ơn tế độ chúng sinh
Chữ nhân cầu tự đinh ninh nhớ đời!
(Nguồn: Ông Nguyễn Tứ Hải – nguyên Phó giám đốc Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Khánh Hòa cung cấp)
4. Vãn Bà
VÃN BÀ
“Cõi Nam vững đặt âu vàng (01)
Mở mang từ thuở Hồng Bàng – Lạc Long
Có trời đất, có núi sông
Bồng lai phương trượng cũng vòng phong cương
Thần tiên là đấng âm dương
Khuất thân biến hóa khó lường mối thân
Thánh tuy chẳng nói quái thần
Xem câu vi đức hỡi còn xem ghi
Nha Trang có chúa Thiên Y
Nha Trang có chúa Thiên Y
Quan Phan Hiệp Biện truyện ghi đành rành (10)
Rằng: Bà vốn cõi thiên đình
Đại An núi Chúa giáng sinh tiên đồng
Tiều Công đôi gã vợ chồng
Ở nơi góc núi tỉa trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái dư thừa
Vì ai bẻ hái trái thưa bông còi
Tiều Công đêm lén rình coi
Phất phơ xiêm áo bồi hồi bóng mây
Dưới trăng tỏ rõ mặt mày
Xênh xang một gái tác tày ngoài mươi (20)
Ôm dưa vừa dỡn vừa cười
Tiều Công gần hỏi chớ người nào đây?
Thương người tuổi trẻ thơ ngây
Vốn không cha mẹ dẫn ngay vào nhà
Vợ chồng xem bằng ngọc ngà
Tấm lòng trọng ái cùng già sớm trưa
Vừa khi gặp tiết mưa sa
Lòng Tiên phút nhớ cảnh xưa tiên thần
Vườn hoa lựa lá xây tường
Ba mươi sáu động mười phần như xuân (30)
Tiều Công xem thấy chẳng ưng
Nổi cơn la tức tiên hằng một khi
Tiên còn đương nghĩ đương suy
Bỗng đâu nước lụt cội kỹ trôi qua
May thay một chiếc tiên sa
Mình bèn thoát hóa ẩn qua cây kỳ
Nổi cơn sóng gió bất kỳ
Trôi về biển Bắc gần kề Yên Kinh
Song câu giai ngẫu thiên thành
Quẻ xưa tàng hỷ đã đành kết thân (80) …
Rủ nhau đem xuống phụng nghinh đem về (40)
Trơ như đá, nặng như chì
Trăm quân xuống kéo trì trì chẳng lay
Người đều trơ mặt khoanh tay
Ngẫm trong vật ấy cho hay có thần
Ngôi Thái Tử tác đang xuân
Tuổi xuân xấp xỉ để tuần gia quan
Song còn vắng vẻ phòng loan
Bền lòng lựa kén phụng hoàng sánh đôi
Cảnh buồn xao xác không vui
Tin hương thơ thẩn như xui tâm tình (50)
Tiếng đồn thấu tới cửa dinh
Xui lòng Thái Tử gác mình xem chơi
Sắm sanh xe giá đến nơi
Thấy cây lớn nổi giữa vời thiên nhiên
Cho hay thanh thế tương truyền
Khoát tay ra đỡ cây liền nổi ngay
Bửu tiên nay đã về tay
Rước vào gác tía đền mây nhẹ nhàng
Kỳ nam thơm ngát đền lan
Gặp trong gương ấy nguyệt quang sáng ngời (60)
Thái Tử đêm bước vào chơi
Cột hương thấp thoáng bóng người vào ra
Khác nào nguyệt điện tiên nga
Xa xem thấy đó, gần đà mất đi
Nghĩ thôi sự cũng lạ kỳ
Lừa cơn vắng vẻ kiếm bề đón nghinh
Mãng còn kén gió trông trăng
Phút đâu đã thấy ả Hằng xuống đây
Mau mau lại nắm lấy tay
Người đương ngơ ngẩn khó xoay ngả nào (70)
Mới bèn tỏ nỗi âm hao
Vì duyên phải chịu bông đào bấy lâu
Thái Tử nghe tỏ trước sau
Vừa mừng vừa sợ vào tâu Phụ hoàng
Vua nghe nói sự lạ thường
Nhưng ngay quý giáp hỏi đường kiết hung?
Sửu xem lục hạp quá xung
Ắt là đầu kiết hậu hung đã đành
Truyền xem thập nhị thời thần
Lựa ngày giá thú châu trần giao hoan (80)
Xưa còn lưu thủy cao san
Nay đà gặp đặng tiếng đàn tri âm
Đã nguyền đôi chữ đồng tâm
Vu Sơn văn vẽ ai cầm đặng êm
…
Trước sau đã ứng đôi điềm xả bi
Gái là Quý, Trí là trai
Thiên hương một đóa, quỳnh chi một cành (90)
Chỉ lời hải thệ sơn minh
Trăm năm cùng tạc chữ tình vào xương
Lạ thay tiên vốn khác thường
Trả xong nhơn quả lánh đường vinh hoa
Thảnh thơi theo thú giang hà
Lầu châu gác tía cùng là lợi danh
Nặng bên cảnh, nhẹ bên tình
Lửa hương tơ tóc đã đành phủi trôi
Thấy đầu mà chẳng thấy đuôi
Thần long biến hóa ai coi đặng tường? (100)
Sẵn sàng một cội thiên hương
Đem hai tiên tử ẩn nương mình vào
Quản bao sóng dỡn nước xao
Bè tiên một chiếc sóng đào ngàn con
Đưa qua bồng đảo Côn Lôn
Gian nhi lạc bỉ nước non đã từng
Cội hương đến bãi Cù Huân
Chúa Tiên thoát hóa trông chừng cảnh xưa
Kiếm tìm vườn lý ruộng dưa
Hỏi han già trẻ điều xưa rõ ràng (110)
Hỏi làng làng vẫn Đại An
Hỏi Tiều, Tiều đã mộ hoang bao giờ
Chúa Tiên trở lại cảnh xưa,
Mở vườn lập miếu phụng thờ Tiều Công.
Dân sanh thưở ấy tuy đông,
Nhưng bề dưỡng tánh thì không biết gì.
Chúa Tiên dạy bảo các bề,
Trai cày gái dệt các bề trị sinh;
Nam hôn, nữ giá phân minh,
Dưỡng sanh, tang tử đều rành nghi văn; (120)
Rừng nhiều voi cọp hung hăng,
Dạy cho rọ bẫy đón ngăn các loài.
Nhân dân nhờ được khỏi tai,
Ăn no, mặc ấm, trong ngoài vững yên.
Người đều cảm đội ơn tiên,
Tạc làm tượng đá lưu truyền nhân gian.
Công đâu từ thưở Tần Hoàng,
Ban ngày cỡi hạc giữa đàng lên mây.
Đến đoạn Thái Tử mới hay,
Sai binh thuyền chích thẳng ngay biển Cù. (130)
Khắp tầm Hòn Khói, Nha Phu,
Tiếng tăm vắng vẻ hình thù thấy đâu?
Nổi cơn lửa đỏ thêm dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Đốt tan làng xóm trong ngoài,
Chúng dân than khóc đến tai Đức Bà.
Bà càng ngẫm nghĩ dần dà,
Làm người tàn ngược hóa Bà nhẫn tâm.
Nổi cơn sóng gió ầm ầm,
Quân binh thuyền chích chìm đầm Cù Huân.(140)
Ai ai trông thấy đều mừng,
Đức Bà biến hóa phép thần cứu dân.
Đua nhau lạy tạ thâm ân,
Xây điện dựng tháp mười phần nguy nga.
Giữa xây tháp lớn thờ Bà,
Kế sau một tháp gọi là thờ Ông.
Đôi bên bố tháp cũng đồng,
Thờ Cô cùng Cậu, vợ chồng Tiều Công.
Đêm ngày đèn thắp hương chong,
Dâng hoa cúng quả ca công chào mời.(150)
Mắt sao, da tuyết rạng ngời,
Khác nào Vương Mẫu giữa trời mới sa.
Trăm ngàn món ngọc chói lòa,
Mãng điều, xiêm trắng ngự tòa hây hây.
Ngàn muôn sinh nữ sắp bày,
Hoa hương cúng hiến sắp đầy trước sau.
Dầu ai Nam Bắc đâu đâu,
Chuyện gì khúc mắc đến cầu cũng linh.
Vườn xưa cam quýt đầy cành,
Nào ai muốn hái thích tình hái ăn. (160)
Nếu ai có dạ tham nhằng,
Mong lòng hái trộm khó đàng tìm ra.
Thấy điều linh nghiệm chẳng ngoa,
Một bầu phong thủy tiên nga đâu bằng.
Nửa hòn sáu tháp lâng lâng,
Năm hòn lố xố lập đem trước tòa.
Kìa Hòn Yến, nọ Cây Gà,
Hòn Lớn, Hòn Bé cùng là Hòn Vung…
Tả biên có núi Cây Sung,
Hữu biên có lối Lỗ Ông chầu vào. (170)
Đêm ngày sóng vỗ nước xao,
Đờn ve, sáo gió thanh tao bốn mùa.
Có viên kiều, có phương hồ,
Có cây thiên tuế, có phù vạn linh.
Thường năm tháng tốt ngày lành,
Thượng cầm hạ thú đồng thanh về chầu.
Cọp hùm đến cũng cúi đầu,
Cá đua dưới nước, tượng chầu trên non.
Trao qua lại thấy mấy hòn,
Ngàn muôn năm cũng vẫn còn hiển linh. (180)
Phương quan tấu đến triều đình,
Nghị phong quan tế anh linh Thượng Thần.
Từ Đinh, Lê, Lý đến Trần,
Đế vương lịch đại cũng đều gia phong.
Nơi nơi thiết dự hội đồng,
Xuân thu quý tế trùng trùng đến nay.
Hạ quan vâng lịnh đến nay,
Những e thuyền nhỏ chở đầy không kham.
Noi theo trung tín mà làm,
Cũng nhờ tiên thánh giùm giùm xiết an. (190)
Bấy lâu tin tức mơ màng,
Nay xem bia ký rõ ràng thỉ chung.
Kính dâng một tấm ngu trung,
Diễn bày quốc ngữ đề phòng truyền ca.
Nha Trang vốn kiểng của Bà,
Đại An, núi Chúa vẫn là còn tên.
Dân ta khi trước đang riêng,
Lại thêm thú dữ phá bên xóm làng;
Lại thêm thủy hạn sương tàn,
Nạn tai mấy lúc, bùn than mấy lần. (200)
Ai mà vì nước vì dân,
Cũng nhờ có sức Tiên – Thần giúp cho.
Muôn dân đều đặng ấm no,
Gió mưa hòa thuận cơ đồ vững an.
Sao cho hổ phục long tàng,
Phụng nghi thú võ bốn phương thanh bình.
Mới hay hiển hách oai linh,
Quá Quan cổ tháp nêu danh đời đời./. (208)
(Được sưu tầm và lưu trữ tại Trung tâm Bảo tồn Di tích tỉnh Khánh Hòa )
5. Cổ Tháp linh tích
CỔ THÁP LINH TÍCH
Trời Nam cấu khí anh linh,
Có nơi phong cảnh hữu tình lạ thay.
Phủ Diên Khánh thuộc nay Hà Bạc,
Cửa Cù Huân non nước thẳm cao.
Lô xô đòi lớp diễn đào,
Khi ra nhìn nguyệt, khi vào quyến phong.
Đinh chất ngất chập chồng hoa cỏ,
Trải tư mùa xanh đỏ sáng trưng.
Suối đàn sóng vỗ vang lừng,
Ngoài khơi cá múa, trong rừng chim ca.
Song cơ ấy chín đà sẵn có,
Khá khen thay tạo hóa khéo xây.
Thú mầu càng ngắm càng say,
Khách tiên đâu hẳn có ngày dạo chơi.
Thuở ngày trước nghe lời truyền nói,
Có vợ chồng cả mọi niên cao.
Hiếm hoi nhà lại ngặt nghèo,
Đem nhau qua ở bên đèo trồng hoa.
Dưa thường mất biết là ai lấy,
Đêm ngồi rình bỗng thấy một nàng.
Ẩn thân dưới bóng nguyệt quang,
Tay Tiên đón bắt trái vàng cầm chơi.
Thẳng tới nơi hỏi nàng cặn kẽ,
Mừng đem về nuôi để làm con.
Tóc mây má phấn môi son,
Xuân xanh phảng phất hầu tròn gương thu.
Vâng thiên phó nhuần no bốn đức,
Chiều thanh tao khác mặt trần tông.
Đêm ngày dưỡng tính thong dong,
Bạn cùng già cả, vui cùng nước non.
Bỗng nguồn cơn về đâu trở ngỡ,
Buổi thanh nhàn sẩy nhớ thú vui.
Hái hoa, chẩy nhị đòi nơi,
Đặt làm cảnh tạm bồng lai ngụ tình.
Già lẫn khuất trọng khinh chưa tỏ,
Nỡ nặng tình mắng mỏ khôn đang.
Thấy chiều đường có bẽ bàng,
Gót Tiên thủng thẳng sen vàng bước đi.
Vừa gặp khi mưa nguồn nước đẫy,
Cây hương đâu trôi chảy giữa dòng.
Thoắt liền biến hiện vào trong,
Sóng đưa lững thững hương xông ngạt ngào.
Tán mây phủ thấp cao mặt nước,
Nhắm chừng vời Bắc quốc vượt qua.
Tiếng đồn khắp hết gần xa,
Sự sao quái dị ai là chẳng kinh.
Quan chốn ấy đem binh ra rước,
Sức người nào địch được phép tiên.
Nào hay trời đã định duyên,
Tiếng thơm đưa thấu tới trên cửu trùng.
Hoàng thái tử chạnh lòng bối rối,
Xem tìm thơm thẳng ruổi đường mây.
Đón tay thử buộc lấy dây,
Cây hương thoắt đã theo tay dần dần.
Đem về để trước sân cung các,
Mùi thơm tho ngát nước đôi nơi.
Có đêm vầng nguyệt sáng soi,
Trong cây nhác thấy một người lộ ra.
Hình yểu điệu xa xa thấp thoáng,
Ngỡ mặt trăng sa xuống sân lầu.
Rụt rè mới hỏi gót đầu,
Việc chi ai bỗng đi đâu chốn này.
Đã minh bạch bày ngay mọi lẽ,
Hãy ngờ rằng quái dị chưa tin.
Có thầy chiêm nghiệm gửi lên,
Thực tiên giáng thế dám xin đừng ngờ.
Trên chín bệ bấy giờ mừng rỡ,
Mối nhân duyên gặp gỡ bởi đâu.
Thơ đào ngợi vịnh ca tâu,
Quốc trừ, Tiên chúa cùng nhau kết nguyền.
Sánh đôi duyên sắt cầm liền gối,
Khúc chung tư ánh ỏi đền phong.
Phồn hoa lần lựa mấy Đông,
Gửi chân thành thị, bền lòng khê sơn.
Nhớ cảnh cũ đòi cơn buồn bã,
Thừa nhân khi thong thả nỉ non.
Rằng xin kiếm chiếc thuyền con,
Để xem sơn thủy đỡ buồn hòa chơi.
Chiều lòng, chúa sai người sắm sửa,
Vầy một đoàn hớn hở xuất dương.
Mênh mông bãi sở, ngàn Tương,
Sóng reo cuống lái, gió nương cánh buồm.
Trải phong cảnh đồi chòm chấp chới,
Cửa Cù Huân thoắt tới khi nào.
Có chim đón rước xôn xao,
Hoa ra mừng chúa, hương vào vịnh non.
Nhìn cảnh vật hãy còn rành rạnh,
Ông bà già đã lánh nơi đâu?
Mới hay nhân cảnh phù âu,
Bèo mây tan hợp, bể dâu sóng dồi.
Quen thú cũ ngày vui tiêu sái,
Thấy dân trời ngày dại mà thương.
Ra ta sửa đặt kỷ cương,
Dân vây đời trị ca xoang thái thuần.
Chưa mấy Thu duyên trần đã mãn,
Lại sắm sanh tìm chốn Thiên thai.
Đầu non tháp đá cao xây,
Dưới sông lai láng, trên mây tần vần.
Trong tháp lại truyền thần tạc tượng,
Vẻ đá xanh bóng sáng màu gương.
Phó cho dân đó giữ giường,
Xe loan phơi phới tếch đường vân yên.
Cũng một phen phi thăng biến hóa,
Giũ bụi hồng phó giả nhân gian.
Xiêm nghê rực rỡ cung Hàn,
Thần tiên được bạn, gian san nhớ người.
Để dấu thơm muôn đời dõi dõi,
Chốn man hoang đều đội ơn sâu.
Chín từ bể bắc ra tầu,
Lòng trên áy náy tiếc lâu lại hờn.
Khéo hỏi han sai người tìm tới,
Chỉ ngàn Nam dò tới cảnh tiên.
Hay đâu phép nhiệm tự nhiên,
Chẳng cho trần tục bén miều thanh hư.
Thoắt bấy giờ ra uy cho biết,
Kẻo người phàm mắt thịt khôn hay.
Sườn non lỡ đá gãy cây,
Bể trôi xao xác, nước đầy chân mang.
Từ thuở ấy chín càng linh hiển,
Phép thần thông biến hiện nhơn nhơn.
Có khi âm ế một cơn,
Cưỡi con bạch tượng chờn vờn ruổi đi.
Nổ ba tiếng xa nghe đồng vọng,
Dậy nghìn non như súng đùng đùng.
Có khi chất vất trên không,
Cưỡi con bạch hạc vẫy vùng liệng bay.
Có khi thấy dưới mây phấp phới,
Hình lụa đào chói chói ngang trời.
Có khi cưỡi sấu thảnh thơi,
Khi nơi non yến, khi nơi đỉnh Cù.
Khắp chín châu đâu đâu kính sợ,
Khẩn nguyền chi cứu trợ sinh linh.
Từ sau về chủ Chiêm Thành,
Dõi truyền hương hỏa đinh ninh phụng thờ.
Tướng rồi có cõi bờ một nước,
Đều cũng nhờ ơn trước mở mang.
Tới từ họ Tống binh cường,
Dẹp rồi mới lấy bản chương đem về.
Hiệu Hoàng Lê cáo phong rỡ rỡ,
Chuẩn sái phu một xã Cù Lao.
Trên ghềnh nghi ngút huân cao,
Rêu in bia đá biết bao cho mòn.
Hốt tới nay dầu còn vẹn vẹn,
Khi anh linh hiển hiện như xưa.
Dầu khi đảo gió khấn mưa,
Mưa tuôn đòi mạch gió đưa con thuyền.
Kẻ qua lèn tìm hương liên yến,
Hễ cầu kỳ như nguyện tùng tâm.
Loài ác thú chốn sơn lâm,
Cũng như một phép chăm chăm tới chầu.
Trải bấy lâu cuộc cờ thay đổi,
Đỉnh tiên du vòi vọi càng cao.
Cõi Nam theo việc nhung đao,
Xa khơi bỡ ngỡ âm hao chưa tường.
Tới địa phương gạn người già lão,
Tiếc sự xưa di thảo chẳng truyền.
Vậy bèn ghi chép một thiên,
Kính dâng ngõ để dấu tiên muôn đời.
Trên chín trời giơ gương mịnh kính,
Họ Hoàng Gia càng thịnh ngàn thu.
Dẹp yên bốn bể chín châu,
Âu vàng mãi mãi vững phù cõi Nam.
Nguồn: Non nước Khánh Hòa - Nguyễn Đình Tư.
6. Thi yên cổ tháp truyền kỳ diễn âm
THI YÊN CỔ THÁP TRUYỀN KỲ DIỄN ÂM
Việc thần tiên có không ai rõ ?
Có dấu xưa là có chuyện xưa.
Non Cù sáu tháp phụng thờ,
Truyền trong dã sử đến giờ còn ghi.
Rằng: Tiên chúa Thiên Y thuở trước,
Vướng nợ trần lạc bước nhân gian.
Có người quê ở Đại An,
Vợ chồng Tiều lão phá ngàn trồng dưa.
Sao có sự lạ chưa, quả lạ ?
Vắng không ai, trộm quả là ai ?
Giận thầm rình đón hôm mai,
Đêm thanh bỗng thấy một người đi xa.
Dưới bóng nguyệt thướt tha qua lại,
Tay mò dây hái trái giỡn chơi.
Tiều ông liền sấn đến nơi,
Trông qua diện mạo một người gái thơ,
Độ mười tuổi ngơ ngơ ngẩn ngẩn,
Hỏi sự tình dắt dẫn về nhà.
Không con nuôi cậy lúc già,
Nâng niu như ngọc như ngà khác chi.
Chốn sơn dã gặp kỳ Thu chí,
Trông bốn bề lạo thủy mênh mông.
Chạnh lòng cảnh cũ non bồng,
Đá xây một cụm tưởng vùng tiên châu
Mắt trần tục biết đâu giải trí,
Nặng lời phàm phật ý tiên nương.
Lòng đương buồn tủi thở than,
Cội kỳ đâu bỗng trôi ngang đến gần.
Vin hương thụ ẩn thân vào đấy,
Thuận sóng đào đưa đẩy ra khơi.
Mênh mông mặt biển chân trời,
Gió bằng thuận cánh thẳng vời Bắc phương.
Đóng vào bến hơi hương ngào ngạt,
Ai cũng kinh ngơ ngác xầm xì.
Trơ như đá nặng như chì,
Muôn ngàn sức mạnh lôi trì chẳng lên.
Ngôi Thái tử trong đền nghe báo,
Xa giá liền một dạo xem chơi.
Mắt xanh vốn rẽ một đời,
Thấy cây bửu thụ lòng người đăm đăm.
Ôi duyện nọ cải kim khéo lạ,
Vừa tay nâng cây đã lên ngay.
Đem về đặt chốn lầu Tây,
Vuốt ve ngắm nghía thường ngày săm soi.
Có đêm gặp chiều trời êm ái,
Bên cây thơm hiện gái thuyền quyên.
Đến gần mong hỏi căn duyên,
Hơi hương còn đó người tiên đâu mà ?
Lòng tư tưởng da ngà vóc ngọc,
Chốn thư phòng trằn trọc biếng khuây.
Đêm thường rình núp nơi đây,
Trông cho thấy bóng ra ngay đón liền.
Một đêm nọ may sao chộ được,
Thái tử lanh tới trước hỏi chào.
Gót sen bỡ ngỡ ẩn vào,
Tay phàm đã bén cách nào hóa thân.
Nỗi tâm sự ngập ngừng bày tỏ,
Nghe đầu đuôi mừng rỡ xiết bao !
Vào chầu tâu hết tâm hao,
Phụ vương phán bói lẽ nào sẽ hay,
Sú một quẻ lại may quẻ tốt,
Truyền lịnh ngày chỉnh đốn hoa viên.
Con vua sánh với gái tiên;
Xứng đôi vừa lứa phỉ nguyền ước ao.
Tục đã vướng buộc vào ân ái,
Cũng sinh con đẻ cái như ai.
Quý là gái, Trí là trai,
Một cô một cậu hôm mai vui vầy.
Đờn hòa nhịp êm dây cầm sắt,
Có điều chi trái mắt bất hài.
Cớ sao lòng động bi ai ?
Quê xưa kiểng cũ nhớ hoài chẳng phai !
Từ đài các dắt hai con nhỏ,
Đều thoắt vào hương thọ ẩn thân.
Cội kỳ thoạt tới hải tân,
Thuận dòng Nam độ hầu gần Cù Huân.
Cây đóng bến hóa thân như cũ,
Ba mẹ con đều rủ lên bờ.
Tìm về chốn cũ thẩn thơ,
Hỏi thăm Tiều lão bấy giờ đã qua,
Chúa Tiên chẳng dần dà giải đãi,
Mở vườn thêm rộng rãi ruộng dưa.
Sửa sang lập miếu phụng thờ,
Vợ chồng Tiều lão ơn xưa nuôi mình.
Dân thôn dã trị sinh phụng dốt,
Lại thêm nhiều voi cọp hung hăng.
Dạy cho nghề nghiệp làm ăn,
Dạy làm bẫy rọ đón ngăn các loài.
Công xếp đặt trong ngoài êm ấm.
Ơn dưỡng sinh thấm khắp lòng dân.
Tạc nên tượng đá truyền thần,
Ban ngày bỗng chốc đằng vân chầu Trời,
Đoạn Thái tử chưa nguôi lòng nhớ,
Mất vợ con ruột tựa kim châm.
Sai quân khiển tướng đi tầm,
Chèo thuyền thẳng đến bể đầm Cù Huân.
Tìm chẳng thấy phừng phừng lửa giận,
Phá xóm làng bất cẩn tượng thần.
Thoạt đâu sóng gió nổi bừng,
Bao nhiêu thuyền chích đành phần lâm nguy !
Hải môn nổi thạch bi Đá chữ,
Khoa đẩu xưa văn tự không tường.
Thần thông hiển ứng khác thường,
Non Cù hòn Yến thường thường lại qua.
Lịch triều đã lụy gia phong tặng.
Tỉnh Khánh Hòa danh thắng là đây.
Trang nghiêm cổ tháp hây hây,
Dấu xưa chuyện cũ sống tày non sông.
Hoành Sơn Phan Huy Tuần tục diễn.
Nguồn: Non nước Khánh Hòa – Nguyễn Đình Tư
7. Văn chầu Thiên Y A Na Thánh Mẫu truyện ca
VĂN CHẦU THIÊN YA NA THÁNH MẪU TRUYỆN CA
Nghìn thu nước biếc non xanh
Tục truyền có thánh hiển linh hạ trần
Thánh xưa hai chữ tôn thần
Lọt ra lòng mẹ trước cần tạo con
Thánh xưa ân nghĩa vuông tròn
Trời Nam biển Bắc tiếng còn như vang
Các lê lần giở quyển vàng
Quốc âm kể lại mấy hàng chép ghi.
Cõi Nam có đức Thiên Y A Na
Dấu thiêng thuở trước truyện kia rành rành
Phẩm tiên vốn ở thiên đình
Đại An núi Chúa giáng sinh lạ lùng
Giang sơn riêng một Tiều ông
Ở ăn góc núi vun trồng ruộng dưa.
Thường ngày bông trái có thừa
Vì ai ngắt hái trái dưa bỗng còi
Tiều ông đêm lượm rình coi
Nhởn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây
Người đâu bỗng xuống chốn này
Phẩm giành bậc nhất tác tầy ngoài mươi
Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều ông gần hỏi: chứ người nào đây
Con ai tác hãy thơ ngây
“Nam mô di Phật” – con thầy thầy nuôi
Tấm lòng yêu dấu chẳng nguôi
Trẻ qua già cậy lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào
Lòng tiên phút nhớ động đào ngày xưa
Đình hoa xây đá sớm trưa
Non kia cảnh nọ dây dưa mấy trùng
Tiều ông ngó thấy chẳng ưng
Nổi cơn la giận bừng bừng một khi
Tiều còn đương nghĩ đương suy
Bỗng đâu nước lụt cội kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc tiên xà
Cho người Tiên được cưỡi qua ra vời
Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể Bắc gần nơi Yên thành
Tiếng thơm đồn đậy xung quanh
Xa gần đem tới phụng nghinh đem về
Trơ như đá, nặng như chì
Trăm quân xúm kéo từ từ chẳng lay
Thảy đều ngơ mặt khoanh tay
Ở trong vật ấy chẳng hay có thần
Một mai thái tử nghe tin
Dạo qua xem thử nhân duyên thế nào
Xuống xe liền néo tay vào
Cột kỳ cất nổi cớ sao lạ thường
Người phi thường, bửu phi thường
Duyên kia đã định dễ nhường cho ai
Rước về đặt chốn các đài
Khi hôm trăng rọi khi mai gió nhuần
Cung xanh tuổi tác đương xuân
Cầu Ô còn đợi mây Ngân bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng dấp giới làn mây dập dờn
Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe
Hương thừa thấp thoáng còn nghe
Đương khi gặp gỡ ai dè sắc không
Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy Tiên Dung ra vào
Mười phần cốt cách thanh tao
May thay gặp bạn động vào Thiên thai
Đã lòng đoái tới cơ đài
Nhân duyên đâu tá giãi bày thử nghe
Bây giờ nước tỏ niềm tê
Rừng dưa bể quế đi về bấy lâu
Cung xanh ngỏ truyện trước sau
Hòa mừng hòa sợ vào tâu thềm rồng
Trên nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền xét xử cát hung dường nào
Khi nên trời cũng khéo chiều
Tìm ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho làm lễ chọn ngày
Cầu xây Ô thước duyên vầy phượng loan
Sắt cầm dìu dặt tiếng đàn
Trước sân mừng thấy quế lan sánh bầy
Song song gái quế trai tài
Xuân xanh chớm nở một cây đôi nhành
Dẫu rằng gá nghĩa cung xanh
Quê xưa cảnh cũ ơn tình còn vương
Lạ gì tiên tích dị thường
Xa đường nhơn quả lánh đường phiền hoa
Cội kỳ sẵn có bởi nhà
Đem hai tiên tử biến ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt biết bao
Biển xanh một dải Cù Lao mấy trùng
Non xanh nước biếc một vùng
Đại An đâu đó trông xa mịt mờ
Cù Huân thoắt đã tới bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi làng làng gốc Đại An
Hỏi tiều tiều đã úa tàn bấy lâu
Rừng dưa man mác đâu đâu
Chạnh lòng ơn nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương may hãy còn nên
Cảm lòng tiều lão cất đền thờ chung
Phương dân buổi ấy người đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa tiên lại mở lòng thương
Dạy phương sinh lý tìm đường lễ nghi
Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hộ trì dành yên
Đoạn rồi tiên lại về tiên
Lên non tạc tượng để miền nhân gian
Phút đâu giá hạc xe loan
Giữa ban ngày đã băng ngàn lên mây
Cõi Nam cảm mến đức đầy
Mây tuôn nước chảy sầu này khôn nguôi
Từ ngày trâm gãy bình rơi
Khuôn dung vắng hẳn tăm hơi ả hằng
Nhớ lời tỏ vẻ dưới trăng
Cung thuyền dục đã đê chừng vượt sang
Quân kia nóng nảy bàng hoàng
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kiêng đến tượng Bà
Từ bi cho mấy cũng là khó tha
Nổi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho thuyền họ đắm xong một lần
Giữa dòng cột đá khôn vần
Dấu thiêng còn đó uy thần còn đây
Khi đỉnh núi khi lên mây
Khi lên voi cưỡi khi vầy cá bơi
Hòn Cù Hòn Én dạo chơi
Sấm ran ba tiếng bóng người giữa không
Oai linh hiển hách lạ thường
Gió Tiên mây Phật cảm thông rất mầu
Phương dân mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga
Giữa xây một tháp thờ Bà
Kề bên hữu dựng một tòa thờ Ông
Hai bên bốn tháp công đồng
Thờ Cô thờ Cậu thờ Ông Mụ tiều
Giữa dòng bia đá còn nêu
Dấu xưa khoa đẩu khôn điều giả uy
Bia ký mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì dừng
Hai bên bốn tháp lừng lừng
Năm hòn lố nhố như giăng trước tòa
Kìa Hòn Én nọ Hòn Gà
Hòn Lớn Hòn Bé với là Hòn Bông
Tả biên có mũi Cây Sung
Hữu biên có núi Mũi Ông chầu vào
Đêm ngày sóng vỗ lao xao
Đàn ve quyến gió thanh tao tứ mùa
Có Viên Kiệu có Phượng Hồ
Có lèn Ngũ Nhạc có đồ Bát Tiên
Thường năm Tứ quý Tam nguyên
Hương thơm đèn rạng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàn quạt rỡ ràng
Kim Đồng Ngọc Nữ hai hàng hầu trong
Này tên này nỏ này cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca
Tôn thần chẳng những người ta
Thượng cần hạ thú cũng là đua nhau
Cọp hùm đâu cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước, voi chầu trên non
Nghìn thu di sản vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn dài
Sử xanh chói lọi không sai
Giúp vua dẹp giặc, ra tài làm mưa
Qua quan này nhớ thuở xưa
Sứ thần Chân Lạp phải đưa mình chầu
Diễn sơn này nhớ thuở dâu
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh
Có khi đèo Cả hiện hình
Có khi Tầm Hới hiển linh hạ mầu
Khắp trong dân chúng đâu đâu
Giúp người chẳng quản khấn cầu tự nhiên
Thần Kinh phong cảnh thiên nhiên
Gần làng Cát Hải có đền Huệ Nam
Quốc sơ mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa dần
Đền Thiên chúa, miếu Thủy thần
Ngạt ngào hương khói ngàn xuân đến giờ
Hàm long điện tả linh tòa
Cảnh nào in cảnh tiên cư lạ dường
Nhìn ra trước mặt sông Hương
Dựa vào Hòn Chén lại càng thanh tao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ, cù lao tam tầng
Núi xanh nước biếc mười phần
Thông reo chim hót họa vần sinh ca
Vực sâu trạch lớn nổi ra
Ơ thần linh đó ấy Hà Bá chăng
E khi chầu chực khôn lường
Đem đồ thủy phủ lên mừng cõi tiên.
Nghìn thu non nước thiên nhiên
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, lưu truyền sử xanh.
(Bản văn này nói về Thánh Mẫu Thiên Y A Na được thờ ở miền Trung).
Được in trong sách Tháp Bà Nha Trang của TS. Nguyễn Công Bằng trích từ Trần Hồng 1992: 66 – 71.
8. Truyện Bà Thiên Y A Na
TRUYỆN BÀ THIÊN Y A NA
“Xứ ta có Đức Thiên Y (01)
Sách xưa chép lại còn ghi rành rành
Nay Bà đến cõi Thiên đình
Đại An núi Chúa giáng sinh tiên đồng
Tiều phu một cặp vợ chồng
Ở nơi chân núi trỉa trồng ruộng dưa
Thường ngày bông trái có thừa
Ai qua hái trộm trái dưa không còn
Tiều phu đêm lén rình coi
Phất phơ chéo áo bôi hồi bóng mây (10)
Bóng trăng chưa tỏ mặt mày
Thấy cô gái nhỏ tuổi ngoài một mươi
Ôm dưa đang dỡn đang cười
Tiều phu gặp hỏi rằng người nào đây?
Thương vì tuổi nhỏ thế này
Lại không cha mẹ dắt ngay về nhà
Vợ xem như ngọc, như ngà
Tấm lòng chung ái cùng đà sớm khuya
Nhơn khi gặp lúc mưa sa
Lòng tiên nữ nhớ cảnh xưa tang bồng (20)
Day qua chọn đá xây chồng
Ba mươi sáu động mười phần như xuân
Tiều ông xem thấy chẳng ưng
Nỗi cơn la hét đùng đùng một khi
Bụng còn đang nghĩ, đang suy
Phút đâu nước lụt trôi qua cội kỳ
May thay một buổi triều quy
Trôi về biển bắc, gần thì Biện kinh
Ai ai xem thấy cũng kinh
Đều đưa khay rước phụng nghinh đem về (30)
Trở qua nặng tợ như chì
Trăm quân xuống kéo, ngàn trì không lên
Nhiều lần kéo, cũng nằm yên
Nghĩ trong vật ấy có Tiên phép thần
Lúc này, Thái tử còn xuân
Tuổi vừa xấp xỉ dưới chừng hai mươi
Song còn vắng vẻ phòng loan
Rằng chờ chọn kén phụng hoàng sánh đôi
Lòng buồn sắc kém chẳng vui
Tin bay thấp thoáng khiến xui tấm lòng (40)
Tiếng đồn thấu đến cửa dinh
Khiến lòng Thái tử cất mình dạo chơi
Sắm sanh xa giá đến nơi
Thấy cây hương nổi giữa vời tự nhiên
Cho hay tinh khiết lưu truyền
Lấy tay nâng đỡ, cây liền nổi ngay
Vật Tiên nay đã về tay
Rước nơi các tía, đài mây nhẹ nhàng
Kỳ nam thơm nức ngai vàng
Thấy trong hương yến hào quang chói ngời (50)
Đêm đêm Thái Tử rình coi
Cây hương thấp thoáng bóng người vào ra
Ai ngờ cô Nguyệt, Tiên Nga
Xa xa trông thấy, gần đà mất đi
Nghĩ thôi chuyện cũng lạ kỳ
Lưạ nơi vắng vẻ tìm bề đón ngăn
Đang còn đợi gió, chờ trăng
Phút đâu đã thấy Nga Hằng xuống đây
Mau tay kịp bắt lấy tay
Người tiên ngơ ngẩn khó xoay phía nào (60)
Tỏ bày hết nỗi hâm hao
Vì duyên phải chịu má đào bấy lâu
Sắm bày trong dạ trước sau
Thái tử đem chuyện vào tâu phụ hoàng
Vua nghe những sự rõ ràng
Mượn lòng quý giúp tỏ tường ngoài trong
Thầy coi lục hiệp quá xung
Ấy là tiền kiết hậu hung đã dành
Có câu giai ngẫu duyên lành
Quả dưa tròn ủng cũng đành kết thân (70)
Mới xem thập nhị thánh thần
Chọn ngày giá thú Châu – Trần kết hôn
Xưa con long thủy giao loan
Nay đà mới gặp tiếng đàn tri âm
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Dù sơn với thủy ai bù đặng thêm
Mừng thay gối ấm nệm êm
Lân la đã đến Châu – Trần vui thay
Gái tên Qúy, trai tên Tri
Thiên hương một đóa, quế chi một nhành (80)
Chữ lời thệ hải sơn minh
Trăm năm giữ trọn chữ tình tuyết sương
Nhớ câu nguyện ước đá vàng
Trả xong nhơn nghĩa, lánh đàng nguyệt hoa
Thảnh thơi vui thú yên hà
Lầu son gác tía cũng là lợi danh
Nặng nhơn đức, trọng ân tình
Lửa tiên tơ tóc bên tình sánh đôi
Thấy đầu mà chẳng thấy đuôi
Thần thông biến hóa ai ai đặng tường (90)
Sẵn dành một cội dạ hương
Đem hai ấu tử ấn nương mình vào
Quản bao nước dợn, sóng dào
Bè trên một nước, sóng dào nghìn con
Trôi về hòn đảo Côn Lôn
Lỡ biên, lạc bước nước non đã từng
Kỳ nam đến cửa Cù Huân
Chúa Tiên biến hóa trông chừng cảnh xưa
Kiếm tìm triền lý, ruộng dưa
Hỏi thăm già trẻ đều chưa tỏ tường(100)
Hỏi thăm làng thiệt Đại An
Gặp tiều, tiều đã mồ hoang thác rồi
Chúa Tiên trở lại cảnh xưa
Mở đường lập miếu để thờ Tiều Công
Nhơn dân thưở ấy đà đông
Song bề dưỡng táng đều không biết gì
Chúa Tiên dạy bảo các nghề
Trai cày, gái dệt đủ bề sinh nhai
Nam hôn, nữ giá tốt thay
Dưỡng sinh, táng tử rành rày nghi văn (110)
Rừng nhiều voi cọp hung hăng
Dạy làm rọ bẫy đón ngăn các loài
Nhơn dân nhớ đặng lời tai
Ăn no mặc ấm trong ngoài bình an
Dựng lên từ thuở tuần hoàn
Ban ngày cưỡi hạc dõi đàng lên mây
Đến đoạn Thái tử mới hay
Binh thuyền sắm sửa đến ngay bến Cù
Khắp tìm Hòn Khói, Nha Phu
Tiếng tăm vắng vẻ, hình thù chẳng đâu (120)
Nổi cơn đỏ lửa u sầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Tìm trong làng xóm lưới chài
Từ trong dân chúng đến tai Đức Bà
Bà càng ngẫm nghĩ thiết tha
Vì người tàn bạo nên Bà nhẫn tâm
Nỗi cơn sóng gió ầm ầm
Quân binh thuyền cháy đỏ đầm Cù Huân
Nổi hòn đá lớn một vùng
Chữ đều khó đọc, ai từng xem qua (130)
Bá niên trường thọ âu ca
Xóm làng sum họp vui hòa cháu con
Cầu cho bá tánh trong thôn
An cư lạc nghiệp hằng năm phụng thờ
Các ông đầu bạc tóc phơ
Dạy cho con cháu thuyết xưa lưu truyền.” (136)
(Bài vãn này sưu tầm từ nghệ nhân Lê Bộc (thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa – ông Hình Phước Liên cung cấp)
Kết luận:
Tục thờ Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa là kết quả từ quá trình cộng sinh, cộng cư của hai tộc người Việt – Chăm trên mảnh đất này; là sự hòa quyện của tục thờ Mẫu của người Việt có nguồn gốc từ đồng bằng Bắc bộ - tài sản tâm linh được mang theo trên bước đường mở cõi về phương Nam với tục thờ Nữ thần Pô Inư Nagar của người Chăm để trở thành tín ngưỡng dân gian có sức ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tâm linh của người dân Khánh Hòa. Đến giữa thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tục thờ này đã phổ biến rộng khắp và Khánh Hoà đã được mệnh danh là miền đất “Xứ Trầm hương” – không chỉ nơi đây có nhiều trầm mà chính để chỉ miền đất phát tích của huyền thoại về Thiên Y Thánh Mẫu. Và đấy cũng chính là nguồn gốc, cơ sở xã hội để sản sinh ra nhiều bài vãn và truyện thơ về Thiên Y Thánh Mẫu.
- Những truyện thơ và bài vãn ở Khánh Hòa đều được chuyển thể từ bài Bi ký do cụ Phan Thanh Giản viết về “Sự tích Thiên Y Thánh Mẫu” được Bố Chánh Khánh Hòa Nguyễn Quýnh cho khắc và đặt tại Tháp Bà – Nha Trang vào năm 1856. Điều đó phần nào đã khẳng định được khoảng thời gian ra đời của các tác phẩm này là những năm đầu của thế kỷ 20 – là thời gian mà các nhà nghiên cứu gọi là “thời kỳ giã từ của truyện thơ Nôm”.
- Các bài vãn và truyện thơ ở Khánh Hòa đều được viết về Thiên Y Thánh Mẫu trong tâm thức tín ngưỡng thờ Mẫu rất rõ rệt. Đặc biệt, truyện thơ “Sự tích Đức Thánh Mẫu Tháp Bà Nha Trang” đã khắc họa cuộc đời và hành trạng của Thiên Y Thánh Mẫu có phần khác biệt với những truyền thuyết về Bà. Qua đó, cho thấy tác giả đã chịu sự chi phối khá mạnh của tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” mà trong đó yếu tố Phật Giáo là chủ đạo. Điều ấy càng rõ hơn khi truyện thơ này đã được các tín đồ Kim Linh Chánh Giáo ở Khánh Hòa chọn làm Kinh văn chính thức.
- Do ra đời trong giai đoạn thoái trào của thể loại truyện thơ Nôm nên phương thức sáng tác của các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa cũng không còn thuần chất như những tác phẩm cùng thể loại ở các giai đoạn trước. Đọc các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa chúng ta sẽ rất khó phân biệt được đâu là tác phẩm tự sự và đâu là tác phẩm trữ tình. Nói cách khác yếu tố trữ tình và tự sự đã hòa quyện vào nhau như một chỉnh thể không thể tách rời. Điều ấy làm cho các truyện thơ, bài vãn ở Khánh Hòa thêm giàu cảm xúc và gần với phương thức sáng tác các tác phẩm văn học viết sau này.
…
Ra đời trái chiều với quá trình phát triển chung của thể loại cùng sự phá cách trong phương thức sáng tác đã là những hiện tượng cá biệt và chính những điều ấy đã tạo nên những nét rất riêng cho các truyện thơ, bài vãn về Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa, góp phần làm phong phú hơn kho tàng văn học dân gian và tô đậm thêm bản sắc văn hóa “Xứ Trầm hương” vậy!
Hình Phước Liên
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007;
2. Kiều Thu Hoạch - Truyện Nôm – lịch sử hình thành và thi pháp thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007;
3. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn – Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005;
4. Hội đồng biên soạn.Từ điển bách khoa Việt Nam - Từ điển bách khoa Việt Nam (tập IV), Nxb Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 2005;
5. Quách Tấn – Xứ trầm hương, Nxb Thông tin (tb), Hà Nội, 1992;
6. Nguyễn Đình Tư – Non nước Khánh Hòa, Nxb Sông Lam, 1969;
7. Nguyễn Thị Nguyệt - Kiểu truyện về Thánh mẫu và truyền thống trọng mẫu trong văn hóa dân gian Việt Nam, Nguồn Intrenet;
8. Lê Đình Chi - Lễ hội Tháp Bà Nha Trang, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, 1997.