Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH THẠNH DANH

21/08/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Thạnh Danh tọa lạc tại khu đất rộng nằm về hướng đông bắc của khu dân cư, thuộc phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Theo truyền khẩu của nhân dân địa phương thì đình Thạnh Danh có từ những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu đình được xây dựng bằng tranh tre, nứa lá: mái lợp tranh, tường chát đất. Hiện nay, đình còn lưu giữ 4 sắc phong của các triều Nguyễn ban: sắc phong vào đời vua Thành Thái năm thứ 2, đời vua Duy Tân năm thứ 3, đời vua Khải Định năm thứ 2 và năm thứ 9.

Đình Thạnh Danh

Trải qua thời gian và chiến tranh, đình nhiều lần bị xuống cấp và được trùng tu nhiều lần:

Năm Bính Tuất 1826 - đình bị sập do bão. Đến đời vua Thiệu Trị thứ 7 (1847) đình được trùng tu xây dựng lại gồm tường gạch, vôi vữa, mái lợp ngói âm dương, với các hạng mục như: Đại đình, nhà đông, nhà tây, nghi môn (cổng) và tường xây bao xung quanh di tích.

Do chiến tranh đình xuống cấp và có nguy cơ bị sập, đến năm Kỷ Dậu (1969) các vị hào lão trong thôn tập hợp vận động bà con quyên góp tiền của công sức xây mới lại ngôi đình, tuy không đồ sộ như xưa nhưng vẫn bề thế, trang nghiêm.

Đến năm 1989, đình được trùng tu lần nữa những chỗ bị xuống cấp và xây thêm tường bao bằng đá san hô, từ đó tồn tại cho đến tận ngày nay.

Di tích quay theo hướng đông, tọa lạc trên vùng đất cao, rộng hơn 2.000m2; nằm trên cánh đồng có không gian thoáng mát; trong khuôn viên của di tích còn có ba cây cổ thụ lớn, tán rộng tới mấy trăm mét vuông: 2 cây găng biển, mỗi cây có đường kính xấp xỉ 7m và một cây me có đường kính xấp xỉ 4m, tạo cho ngôi đình nét cổ kính, thâm u.

Từ ngoài vào có các công trình sau: Nghi môn và tường bao, cột cờ, sân, án phong, sân, miếu Thần linh, miếu Sơn lâm, Đại đình, miếu Tiền hiền, nhà hội trường.

Trước kia, lễ hội truyền thống của đình Thạnh Danh được tổ chức mỗi năm hai lần mùa xuân và mùa thu “Xuân kỳ Thu tế”, lễ cúng miếu vào ngày 16 tháng 02 âm lịch, cúng Thần Hoàng vào ngày 16 tháng 7 âm lịch. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây, nhân dân trong làng thống nhất lấy ngày 12 tháng 7 âm lịch hàng năm làm ngày lễ hội của đình. Cứ ba năm một lần trong lễ hội có tổ chức hát bội.

Đình Thạnh Danh vừa là một di tích kiến trúc nghệ thuật, vừa là di tích lịch sử có liên quan đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi nhóm du kích do đồng chí Trần Máy chỉ huy cùng với các đồng chí Nguyễn Nơi, Ba Tôn, Lê Đấu, Lê Làm, Nguyễn Phụ,…đã hội họp bàn bạc tuyên truyền hoạt động cách mạng ở địa phương; năm 1945, nhóm du kích đã bắt được và trừng trị tên Khóa việt gian trong làng. Đình còn là nơi bảo tồn lưu giữ văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng dân cư người Việt ở nơi đây nói riêng cũng như trên mảnh đất Khánh Hòa nói chung.

Với những giá trị về lịch sử - văn hóa, ngày 21 tháng 11 năm 2005 UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2342/QĐ-UBND xếp hạng đình Thạnh Danh là Di tích cấp tỉnh.

                                                                   Hoàng Quý

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH XUÂN HÒA
Đình Xuân Hòa quay về hướng Nam. Toàn bộ kiến trúc đình nằm trên mặt bằng rộng 2.352m2, bao gồm các công trình kiến trúc như sau: Nghi môn, án phong, cột cờ, miếu Sơn Lâm chúa tướng, miếu Thủy Đức Thanh Quang, võ ca, chính điện, miếu Âm linh, miếu Thánh Nương (còn gọi là miếu Bà), miếu Tiền hiền, nhà bếp, nhà ăn.
MIẾU VÕ ĐẾ
Võ Đế Miếu (thường gọi là Chùa Ông) toạ lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú và Thiên Hậu miếu (thường gọi là Chùa Bà) tọa lạc tại 338 Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp. Vào năm 1814, được sự hưởng ứng của cộng đồng người Hoa gốc Quảng Đông, ông Đàm Thành An được giao quyền thành lập Bang hội.
QUỲNH PHỦ HỘI QUÁN
Quỳnh Phủ Hội Quán (tức Hội Quán Hải Nam) ở Ninh Hoà toạ lạc trên khu đất hình chữ nhật rộng trên hai mẫu ở đường Trần Quý Cáp. Đây là Hội quán có quy mô xây dựng và diện tích lớn nhất; đồng thời cũng là Hội quán mang tính tổng hợp nhất trong hệ thống Hội quán, chùa chiền của người Hoa ở Khánh Hòa.
TUỆ THÀNH HỘI QUÁN
Miếu Bà Thiên Hậu là di tích được hình thành sớm trên vùng đất Ninh Hòa, được thiết kế theo lối kiến trúc đặc trưng của người Hoa với hai chức năng vừa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng thờ tự, vừa là hội quán hội họp của cộng đồng người Việt gốc Hoa ở Ninh Hòa.
TỰ PHỔ MINH HƯƠNG
Tự Phổ Minh Hương vừa là trụ sở vừa là nơi thờ cúng vị thần gốc Hoa mà dân gian phong là “trung can, nghĩa khí” đó là Quan Thánh Đế Quân. Thông qua việc bảo tồn và thờ cúng của cộng đồng Hoa kiều tại Tự Phổ Minh Hương thể hiện sự ngưỡng vọng của người dân đối với các bậc tướng tài đã phù hộ cho họ trong việc khai khẩn đất hoang, quy dân, lập ấp tạo dựng xóm làng và tạo sự đoàn kết của cộng đồng người Hoa; với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được thể hiện qua hoạt động cầu cúng và tu bổ ở Tự Phổ Minh Hương.
ĐÌNH HẬU PHƯỚC
Đình Hậu Phước được dựng lên để thờ Thành Hoàng làng, Tiền Hiền, Thiên Y A Na, Nghĩa Từ, Thần Nông. Đình Hậu Phước còn lưu giữ 04 sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng cho Thành Hoàng, gồm: Tự Đức (02 sắc), Đồng Khánh và Duy Tân.
ĐÌNH TUÂN THỪA
Đình Tuân Thừa tọa lạc tại thôn Tuân Thừa, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Căn cứ trên sắc phong còn lưu giữ của đình, sắc sớm nhất được ban tặng vào năm 1890 có thể đoán định đình được xây dựng khoảng giữa thế kỷ XIX. Đình Tuân Thừa thờ Thành Hoàng làng và phối thờ Đại càn Quốc gia Nam Hải, Ngũ hành Thần nữ, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiên sư, Thổ công…
ĐÌNH PHONG THẠNH
Trong những cuộc di dân vào vùng đất Khánh Hòa, có một nhóm người gốc Bình Định đã định cư ở Suối Ré - tức làng Phong Thạnh ngày nay. Các vị tiền nhân đến khai hoang lập ấp, sinh sống ở đây đã xây dựng đình từ khi nào không ai trong làng còn nhớ rõ. Căn cứ vào sắc phong còn lưu giữ ở đình lâu đời nhất là sắc đời vua Thiệu Trị năm thứ 3 (năm 1843), có thể đoán định đình được xây dựng ....
ĐÌNH PHÚ THỌ
Đình Phú Thọ tọa lạc tại tổ dân phố Phú Thọ 3, phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hoà. Từ trung tâm thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1A, đi về phía Bắc ....
ĐÌNH ĐIỀM TỊNH
Đình Điềm Tịnh ra đời, tồn tại gắn liền với những lần thay đổi mảnh đất và con người làng Điềm Tịnh ngày nay. Thuở mới lập, làng có tên là Xuân An xã; đến triều vua Thiệu Trị, làng đổi tên là làng Điềm An; sau đó, làng lại tiếp tục đổi thành làng An Thạch Đông; sau một thời gian đổi thành làng Điềm Tĩnh; đến triều vua Tự Đức, làng có tên gọi là làng Điềm Tịnh.