Hotline: (0258) 3813 758

PHẦN MỘ THƯỢNG THƯ NGUYỄN XUÂN THỤC

02/07/2018 00:00        
Đọc tin

Phần mộ cụ Nguyễn Xuân Thục tọa lạc trong khuôn viên đất họ tộc (thuộc tổ dân phố Phước Đa 2, phường Ninh Đa, Ninh Hòa).

* Vài nét về tiểu sử cụ Nguyễn Xuân Thục

Nguyễn Xuân Thục (1762-1827) quê ở huyện Quảng Phúc, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Nguyễn Xuân Tịnh/Tĩnh[1] làm quan đến chức Tiền Khâm sai Cai đội.

Khi mới vào quân ngũ, Nguyễn Xuân Thục là thuộc hạ của Võ Tánh, được thăng làm Tham luận vệ Tiền kích vào năm 1796. Ông lập công lớn trong việc chiếm thành Quy Nhơn và đã từng tòng quân cho nhà Tây Sơn. Năm 1804, Nguyễn Xuân Thục được thăng làm Ký Lục Trấn Biên, sau đó chuyển qua làm Cai Bạ Vĩnh Thanh[2] (thuộc Gia Định Thành). Năm 1813, ông được thăng làm Hữu Tham Tri bộ Hình[3], sau đó, chuyển sang làm Hữu Tham Tri bộ Binh[4] và được phong tước “Thục Thiện hầu[5]”. Năm 1814, ông được vua giao cho làm Hiệp Trấn Thanh Hóa. Năm 1816, ông phải về quê chịu tang cha. Năm 1817, sau khi mãn tang cha, ông quay trở lại trấn Thanh Hóa làm Hiệp Trấn.

Đến năm Minh Mệnh nguyên niên (1820), Nguyễn Xuân Thục đã được triệu về kinh “chuẩn cho lưu lại tại Kinh cùng với Hữu Tham Tri bộ Binh Quang Huy hầu Nguyễn Tăng Địch làm các công vụ trong Bộ…[6]. Đồng thời, ông được giao làm Phó sứ Sơn Lăng lo việc xây cất lăng Thiên Thọ - nơi chôn cất vua Gia Long và được vua Minh Mệnh tiếp tục giao đến Thành Gia Định để lo công việc trong bộ Hộ[7] và bộ Công[8].

Đến Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), Nguyễn Xuân Thục được giao coi thi ở thành Gia Định.

Minh Mệnh năm thứ 06 (1825), Nguyễn Xuân Thục đã được giao nhận chức Thượng thư bộ Binh[9].

Minh Mệnh năm thứ 08 (1827), sức khỏe của ông giảm sút. Ông dâng sớ xin nghỉ việc về quê chữa bệnh. Nguyễn Xuân Thục về đến quê được vài tháng thì qua đời, hưởng thọ 65 tuổi. Bản Chiếu đề ngày 02 tháng 06 Minh Mệnh năm thứ 08 ghi rằng: “Nguyễn Xuân Thục từ kinh về quê quán, đột nhiên từ trần. Tưởng nhớ công lao trước thật đau xót. Ngoài khoản tuất cấp theo thường lệ, nay gia ân thưởng tiền ba trăm quan, gấm tiễn ba cây” đồng thời cấp cho một người phu coi mộ.

* Kết cấu kiến trúc ngôi mộ

Phần mộ của Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục có diện tích 57,75m2, mặt tiền quay hướng Đông. Phía trước phần mộ là án phong. Chính giữa vòng thành là huyệt mộ của Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục. Huyệt mộ có hình dáng một con voi quỳ với những đường nét hoa văn uốn lượn theo thân rất mỹ thuật.

Kết cấu kiến trúc phần mộ Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục

 

Cách ngôi mộ Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục khoảng 100m về phía Đông là phần mộ của thân mẫu ông - Thục nhân Trần Thị Đường. Phần mộ có quy mô nhỏ  và hiện đã bị cỏ cây che lấp phần lớn.

Hiện nay, gia đình ông Nguyễn Xuân Hổ dành riêng một gian nhà Từ đường làm nơi phụng thờ cụ Thượng thư và thân mẫu ông. Hàng năm, gia đình tổ chức lễ giỗ Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục vào ngày 26/5 âm lịch. Hiện tại, gia đình ông Hổ vẫn còn lưu giữ 23 chiếu chỉ các triều vua Gia Long và Minh Mệnh ban cho (triều vua Gia Long có 05 chiếu chỉ và triều vua Minh Mệnh có 18 chiếu chỉ).

Ngày 19/3/2008, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 703/QĐ-UBND xếp hạng Phần mộ - Từ đường Thượng thư Nguyễn Xuân Thục là Di tích lịch sử-văn hóa cấp tỉnh.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                          Trần Thị Thanh Loan



[1] Tiền hiền thôn Phước Đa 2, xã Ninh Đa, huyện Khánh Ninh, tỉnh Phú Khánh;
[2] Tức là Vĩnh Long và An Giang ngày nay;
[3] Coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những từ giam ngục cấm…;
[4] Coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh…;
[5] Ngũ tước của triều Nguyễn theo thứ tự từ cao xuống thấp lần lượt là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam [Xem chiếu chỉ Gia Long năm thứ 13 (1814)];
[6] Chiếu chỉ ngày 22 tháng 02 triều vua Minh Mệnh năm thứ 1;
[7] Coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ…;
[8] Coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu…;
[9] Tương đương với Bộ trưởng ngày nay: là một chức vụ rất quan trọng bởi vì đây là chức vụ nắm toàn bộ quân đội (gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo thủ binh);

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 2
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH HỘI ĐIỀN
Đình Hội Điền tọa lạc tại thôn Hội Điền, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Hội Điền” xuất phát từ việc lấy tên thôn để đặt cho đình. “Hội Điền” mang ý nghĩa là nơi tập hợp, hội tụ của những người làm ruộng vườn. Tên gọi này được giữ nguyên từ khi khởi dựng đình cho tới ngày nay.
ĐÌNH PHƯỚC ĐA
Đình Phước Đa tọa lạc trong khu đất có tổng diện tích 2.574,6m2, mặt tiền của đình quay về hướng Nam. Từ ngoài vào trong, đình Phước Đa có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Nghi môn, án phong, miếu Ngũ hành, miếu Sơn Lâm, chính điện, nhà đông, nhà tây, miếu Tiền hiền.
ĐÌNH XUÂN MỸ
Đình Xuân Mỹ tọa lạc ở giữa thôn Xuân Mỹ, trong khuôn viên có tổng diện tích 1.712 m2, mặt tiền của di tích quay về hướng Đông. Từ ngoài vào trong, đình Xuân Mỹ có bố cục mặt bằng tổng thể gồm các thành phần kiến trúc: Cột cờ, án phong, chính điện, nhà kho.
ĐÌNH BÌNH THÀNH
Đình Bình Thành thuộc xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tên gọi “Bình Thành” xuất phát từ việc lấy tên thôn để đặt cho đình. Ngoài ra, đình Bình Thành còn được biết đến với tên gọi là đình miếu Hương - do đình ở bên cạnh miếu Hương, là miếu thờ Bà Thiên Y A Na và người đi tìm trầm hương thường ghé thắp nhang xin Bà phù hộ trước khi đi, khi về cũng thắp hương tạ ơn nên người dân gọi là miếu Hương.
ĐÌNH PHÚ HÒA
Làng Phú Hòa được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1653 – 1687, các bậc Tiền hiền theo chân chúa Nguyễn vào Nam khai hoang, lập ấp và sinh sống ở đây. Đình được khởi dựng vào năm Qúy Hợi (1803). Lúc bấy giờ đình xây dựng đơn sơ, mái lợp tranh, vách đất. Đến năm Giáp Tuất (1934), dân làng xây dựng lại như hiện nay.
ĐÌNH LĂNG BÌNH TÂY
Đình – lăng Bình Tây, thuộc thôn Bình Tây 2, phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nằm cách trung tâm thị xã Ninh Hòa khoảng 18km về hướng Đông Bắc. Đình - lăng tọa lạc trên một địa thế đẹp ở phía Bắc của thôn, mặt hướng ra đầm, lưng tựa vào núi.
ĐÌNH THẠCH THÀNH
Đình Thạch Thành tọa lạc tại thôn Thạch Thành, xã Ninh Quang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngôi đình còn là địa điểm lực lượng cách mạng địa phương tổ chức mít tinh, vận động nhân dân ủng hộ thuốc men, lương thực…để phục vụ cho kháng chiến. Từ năm 1945 – 1954, đình Thạch Thành là nơi tập trung của lực lượng cách mạng địa phương.
ĐÌNH PHÚ THẠNH
Đình Phú Thạnh tọa lạc tại tổ dân phố Phú Thạnh, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hoà. Ban đầu, đình được xây dựng ở giữa làng. Sau đó, không hiểu lý do gì mà ngôi đình được dời lên phía đầu làng. Đến năm Giáp Tuất (1934), ngôi đình lại được dời một lần nữa đến địa điểm hiện nay.
ĐÌNH THẠNH MỸ
Đình Thạnh Mỹ quay theo hướng Đông, nằm trong khuôn viên đất với tổng diện tích: 1.240 m2. Đình được xây dựng theo kết cấu kiểu “Tam Sơn” với chính điện ở giữa cao hơn, hai bên là nhà đông và nhà tây.
ĐÌNH THUẬN MỸ
Đình Thuận Mỹ tọa lạc thôn Thuận Mỹ, xã Ninh Quang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Đình Thuận Mỹ được xây dựng đầu thế kỷ XIX, các kiến trúc trang trí mỹ thuật, hội hoạ, điêu khắc tinh xảo, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian, sinh động, có giá trị thẩm mỹ trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương.