Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH BÌNH TÂN

16/07/2018 00:00        
Đọc tin

Di tích đình Bình Tân tọa lạc ở Tổ dân phố 1 Bình Tân, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha trang, tỉnh Khánh Hòa. Vào đầu triều Nguyễn là một phần đất của Cồn Giữa thôn Bến Đò, thuộc Hà Bạc, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh.

Cách đây vài trăm năm một bộ phận dân cư người Việt các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên theo đường biển vào ven sông cửa Bé đóng trại cất nhà. Về sau dân cư đông đúc họ quy tụ thành làng, thành ấp xây dựng đình để có nơi nhân dân thờ cúng. Nghề nghiệp chủ yếu của cư dân ở đây là đánh cá, vì vậy vị thần họ tôn thờ là Thần Nam Hải (cá Voi). Đình Bình Tân không rõ được xây dựng chính xác vào năm nào nhưng căn cứ vào các sắc phong được ban tặng sớm nhất vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) còn lưu giữ tại Đình, có thể khẳng định ít nhất đình ra đời đầu thế kỷ XIX.

Từ khi xây dựng đến nay, đình Bình Tân đã trải qua những lần tu bổ sau:
- Ban đầu đình được làm đơn sơ nhà tranh, vách đất. Năm 1925, đình tu bổ, lợp ngói âm dương.
- Năm 1956, Ban vận động gồm các cụ: Mai Đồng, Võ Tha, Huỳnh Đàm, Nguyễn Hóng, Lê Kim Thinh, Phù Lợi vận động bà con nhân dân góp công, của tu bổ đình, lợp lại ngói Móc, tráng nền xi măng, vách tô hồ xi măng.
- Năm 1989, Đình xuống cấp, ông Nguyễn Học đứng ra thành lập Ban vận động tu bổ với sự đóng góp của bà con nhân dân Đình được tu bổ các hạng mục, công trình gồm: lợp lại ngói, tu sửa Nghi môn và Án phong, xây tường rào mặt tiền và rào ba mặt sau, sơn quét vôi toàn bộ di tích.
- Năm 1996, tu bổ nhà Tiền hiền.
- Năm 1998, tu sửa lại ngói, nâng nền Đình.
- Năm 2003, xây tường rào bao quanh.
- Năm 2013, với sự đóng góp của nhân dân cùng với sự hỗ trợ kinh phí của thành phố Nha Trang, đình Bình Tân tiến hành đại tu bổ.

Đình Bình Tân tọa lạc trên một khuôn viên rộng, bằng phẳng, với diện tích 943.5 m2, quay về hướng Đông Nam trông ra cửa Bé (cửa sông Bình Tân). Hướng và thế đất của Đình phù hợp với không gian, cảnh quan của di tích.

Hiện nay, tổng thể đình Bình Tân mang phong cách kiến trúc triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, xây dựng theo kiểu chữ Tam (三); các hạng mục, công trình gồm: Nghi môn, Án phong, Võ ca, Tiền tế, Chính điện, miếu Nam Hải, miếu Ngũ hành và miếu Tiền hiền.

Đình Bình Tân thờ: Thành Hoàng, Ông Nam Hải, Ngũ hành, Tiền hiền…

Đình Bình Tân còn lưu giữ được khá nhiều di vật, cổ vật có giá trị, các di vật ở đây khá phong phú về thể loại và chất liệu như: sắc phong, câu đối, tư liệu Hán Nôm, long đình, lọng, chiêng, trống, thanh la, nghi thức, nghi lễ cúng, văn tế, nhạc lễ, trang phục tế lễ… đặc biệt hàng năm vào ngày tốt tháng Mười (Âm lịch) nhân dân lại tổ chức lễ cúng đình mang đậm bản sắc văn hóa của địa phương, ngoài phần lễ còn có phần diễn xướng dân gian (Hát Bội) để phục vụ bà con nhân dân vui chơi, thưởng thức.
Sắc Minh Mạng năm thứ 3 (1822) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Tự Đức năm thứ 3 (1850) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Tự Đức năm thứ 33 (1880) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Đồng Khánh năm thứ 02 (1887) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Duy Tân năm thứ 03 (1909) phong cho thần Nam Hải;
-  Sắc Duy Tân năm thứ 05 (1911) phong cho Bản cảnh Thành hoàng;
-  Sắc Khải Định năm thứ 09 (1924) phong cho thần Nam Hải.
-  Sắc Khải Định năm thứ 09 (1924) phong cho Bản cảnh Thành hoàng.

 

Một số sắc phong bảo lưu ở đình Bình Tân

 

Đình Bình Tân, có niên đại khoảng đầu thế kỷ XIX là một trong những ngôi đình cổ trên vùng đất Khánh Hòa nói chung và vùng đất Nha Trang nói riêng. Di tích tồn tại cùng với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất ven sông Bình Tân (cửa Bé). Ngôi đình như là một minh chứng cho sự tồn tại của làng Bình Tân, trong đó hội tụ hầu như đầy đủ những giá trị văn hóa mà ông cha ta đã sáng tạo và lưu truyền cho hậu thế.


Kiến trúc gỗ với những hoa văn trang trí tinh xảo

 

Điểm nổi bật nhất của ngôi Đình là hệ thống kiến trúc gỗ mang nét đặc trưng với những hoa văn trang trí tinh xảo, mang đậm phong cách truyền thống của địa phương vẫn còn được lư giữ.

Với những giá trị tiêu biểu trên, di tích đình Bình Tân đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 515/QĐ-UBND, ngày 24/3/2006 xếp hạng là di tích lịch – văn hóa cấp tỉnh.

                                                                           Nguyễn Chí Khải

 

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 1
 

Tin khác

breaker
CHÙA LONG SƠN
Chùa Long Sơn tọa lạc ở thôn Phú Cang 1, xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa (vào đầu triều Nguyễn là một phần đất của thôn Tiền Cang, thuộc tổng Hạ, huyện Quảng Phước, phủ Bình Hòa)[1]. Chùa được khởi dựng trước năm Thành Thái thứ 10 (1898). Xưa kia, di tích có tên là chùa Thánh Kinh, thờ Quan Thánh Đế Quân. Hiện nay, chùa Long Sơn chùa thờ Phật, Quan Thánh Đế Quân, năm vị trụ trì và Bồ tát Thích Quảng Đức.
ĐÌNH HIỀN LƯƠNG
Ngoài giá trị về lịch sử văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, đình Hiền Lương còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị minh chứng cho quá trình tồn tại của ngôi đình như: bát bửu (16 chiếc), long đình được chạm trổ tinh xảo, chiêng trống, mõ... Đặc biệt, đình Hiền Lương còn lưu giữ ba đạo sắc phong do các vị vua triều Nguyễn ban tặng gồm:
ĐÌNH HẢI TRIỀU
Đình Hải Triều được khởi dựng do nhu cầu của cộng đồng cư dân khi đến vùng đất mới khai hoang, lập ấp. Đây là một đặc trưng truyền thống về lễ nghi, tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của người dân Khánh Hòa nói chung và người dân Vạn Ninh nói riêng.
ĐÌNH BÌNH TRUNG
Đình Bình Trung hiện nay thuộc thôn Bình Trung, xã Vạn Bình, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa (vào thời Nguyễn là một phần đất của Bình Sơn xã, thuộc tổng Hạ, huyện Quảng Phước, phủ Bình Hòa)[1], nằm cách thĐình Bình Trung tọa lạc trên một khu đất địa thế đẹp, không gian thoáng mát giữa khu dân cư, có diện tích 910.4m2, đình quay hướng Nam.ành phố Nha Trang 63km về hướng Bắc.
CHÙA THANH TRIỀU
Chùa Thanh Triều được khởi dựng vào năm Kỷ Mão (1819) do một số người Việt gốc Hoa đứng lên xây dựng, để thờ Quan Thánh Đế quân, vị thánh được thờ ở nhiều nước phương Đông, có sự giao thoa, tiếp biến với văn hóa Trung Hoa như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Ngài biểu tượng cho nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho lòng danh dự, dũng cảm trung thành. Ngoài ra, di tích còn thờ tướng quân Châu Xương và hoàng tử Quan Bình.
MIẾU QUAN THÁNH
Miếu Quan Thánh do những người Việt gốc Hoa vùng Quảng Đông (Trung Quốc) sang sinh sống và làm ăn tại Diên Khánh xây dựng lên. Nơi định cư của người Hoa sớm nhất ở Diên Khánh là Thanh Minh (xã Diên Lạc), sau họ chuyển xuống khu vực Thành.
TRƯỜNG PHÁP - VIỆT NINH HÒA ( TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÁP- VIỆT NINH HÒA)
Trường Pháp - Việt Ninh Hòa được xây dựng vào năm 1922 dưới triều vua Khải Định. Đây là ngôi trường đầu tiên của phủ Ninh Hòa (gồm hai huyện Tân Định và Quảng Phước) do chính quyền đô hộ thực dân Pháp xây dựng sau khi bãi bỏ chế độ học hành thi cử Nho học dưới triều Nguyễn năm 1919.
ĐÌNH PHÚ XƯƠNG
Đình Phú Xương được xây dựng khoảng đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ hào lão kể lại: đình Phú Xương xưa thuộc thôn Phú Toàn (sau đổi thành Phú Nhơn, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa). Đầu tiên đình do năm dòng tộc (Trần, Lê, Nguyễn, Huỳnh, Lâm) trong làng xây dựng tại gò Bà Đỡ (nay là thôn Xuân Ngọc, xã Vĩnh Ngọc) và lấy tên làng Phú Toàn làm tên đình.
MIẾU BÀ THÁNH MẪU
Miếu Bà Thánh Mẫu thuộc thôn Lạc Lợi, xã Diên Hòa, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Miếu có nhiều tên gọi khác nhau, trong đó có tên gọi gắn với truyền thuyết: xung quanh ngôi miếu có nhiều cây cổ thụ, thỉnh thoảng dân làng thấy khu vực miếu sáng rực, nhất là những đêm diễn ra lễ hội, tại miếu bà con trong vùng thấy những những ánh sáng ngũ sắc từ hướng Am Chúa (Diên Điền) bay qua rồi giáng xuống chỗ miếu, sau đó bay qua Suối Đổ hoặc ngược lại, nên dân làng gọi đây là miếu Giáng, có nghĩa Thánh Mẫu Thiên Y giáng lâm vãn cảnh nơi đây.
ĐÌNH HỘI PHÚ
Đình Hội Phú tọa lạc tại thôn Hội Phú Bắc 1, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Làng Hội Phú được thành lập vào cuối thế kỷ XVIII, lúc bấy giờ làng chỉ có 2 thôn là Hội Phú Nam và Hội Phú Bắc. Sau ngày miền Nam hoàn toàn thống nhất, để thuận lợi cho việc quản lý nên làng lại chia thành Hội Phú Nam 1, Hội Phú Nam 2, Hội Phú Bắc 1, Hội Phú Bắc 2.