Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH QUẢNG HỘI

03/07/2018 00:00        
Đọc tin

Di tích tọa lạc tại thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh (trước kia có tên gọi Phú Hội Đông phường tục danh tên Nôm là xứ Rừng Cát, Cây Dương, thuộc tổng Hạ, huyện Quảng Phước)[1]. Nằm cách thành phố Nha Trang 63 km về hướng Bắc.

Đình Quảng Hội được khởi dựng trước năm 1852, để thờ Bản cảnh Thành Hoàng và các vị thần phù trợ khác. Ban đầu, Đình được xây dựng với kết cấu đơn giản, chủ yếu tận dụng từ các nguyên vật liệu có sẵn tại địa phương, mái lợp tranh, vách đất.

Từ khi khởi dựng tới nay, Đình Quảng Hội đã trải qua 2 lần tu bổ:
- Lần thứ nhất: năm 1928, với sự đóng góp của nhân dân Đình được dựng bằng vật liệu đá vôi, mái lợp ngói Âm dương.
- Lần thứ hai: năm 1967, Đình tu bổ lần thứ hai với sự đóng góp của nhân dân (nguyên vật liệu chủ yếu là gạch, xi măng, bộ khung gỗ được giữ lại, thay ngói Âm dương bằng ngói tây).

Hiện nay, Đình Quảng Hội còn lưu giữ được 06 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng:
- Tự Đức năm thứ 05 (1852) phong cho Bản Cảnh Thành Hoàng.
- Tự Đức năm thứ 33 (1880) Chuẩn cho thờ tự như cũ.
- Đồng Khánh năm thứ 02 (1887)[2] phong cho Bản cảnh Thành Hoàng.
- Duy Tân năm thứ 03 (1909) Chuẩn cho thờ tự như cũ.
- Khải Định năm thứ 02 (1917) phong cho Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi.
- Khải Định năm thứ 09 (1924) phong cho Bản cảnh Thành Hoàng.

Đình Quảng Hội được xây dựng trên một khung đất địa thế đẹp và thoáng đãng, có tổng diện tích là 2.214,9m2. Mặt đình hướng về phía Tây Nam. Trước mặt là cánh đồng lúa của xã và khu dân cư, xa xa là dãy núi Phổ Đà  Ni - Hòn Chải.

Từ ngoài vào trong, Đình Quảng Hội bao gồm các công trình kiến trúc: Nghi môn, Án phong, Tiền tế, Chính điện, Nhà Tiền hiền, miếu Bà.

Hàng năm, vào tháng 3 Âm lịch  nhân dân tổ chức lễ cúng Kỳ yên/Kỳ an để cầu “Quốc thái dân an” và vào tháng 7 Âm lịch, nhân dân tổ chức lễ cúng tế các bậc Tiền hiền, Hậu hiền đã có công khai mở đất đai, quy dân lập ấp, tạo dựng xóm làng.

Đình Quảng Hội là một trong số ít ngôi đình cổ mang đậm dấu ấn phong cách kiến trúc đầu triều Nguyễn trên mảnh đất Khánh Hòa, được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, để thờ Thành Hoàng, Thiên Y A Na, Tiền hiền, Hậu hiền… Đến nay, Đình Quảng Hội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Chính vì những giá trị tiêu biểu trên, đình Quảng Hội đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 3094/QĐCT-UBND, ngày 05/12/2013 xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

Nguyễn Chí Khải

[1] Nguyễn Đình Đầu 1997: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Khánh Hòa. - T.p Hồ Chí Minh: NXB thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Đạo sắc phong này hiện tại đã bị mất, chúng tôi dựa vào tư liệu sổ ảnh kiểm kê di tích năm 2002 của Trung tâm QLDT – DLTC Khánh Hòa (nay là Trung tâm Bảo tồn di tích Khánh Hòa) để khôi phục lại.

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                     

 

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH PHÚ THỌ
Đình Phú Thọ tọa lạc tại tổ dân phố Phú Thọ 3, phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hoà. Từ trung tâm thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1A, đi về phía Bắc ....
ĐÌNH ĐIỀM TỊNH
Đình Điềm Tịnh ra đời, tồn tại gắn liền với những lần thay đổi mảnh đất và con người làng Điềm Tịnh ngày nay. Thuở mới lập, làng có tên là Xuân An xã; đến triều vua Thiệu Trị, làng đổi tên là làng Điềm An; sau đó, làng lại tiếp tục đổi thành làng An Thạch Đông; sau một thời gian đổi thành làng Điềm Tĩnh; đến triều vua Tự Đức, làng có tên gọi là làng Điềm Tịnh[1].
ĐÌNH TRÀ LONG
Đình Trà Long khởi dựng khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, ở Đồng Lác, là nơi người dân đến khai hoang phát nương làm rẫy. Lúc đó, đình được dựng bằng tranh tre, nứa lá. Sau một thời gian, làng xóm phát triển và dân cư tập trung đông đúc ở khu vực Ba Ngòi, cùng lúc đình bị xuống cấp nên dân làng dời đình về khu đất gần bờ biển (xóm Trà Long cũ – phía nam cầu Trà Long hiện nay).
TRỤ SỞ UỶ BAN NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÂM THỜI HUYỆN BA NGÒI
Di tích Trụ sở UBND Cách mạng lâm thời huyện Ba Ngòi ngày nay thuộc tổ dân phố Xóm Cồn, phường Cam Linh, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Công trình kiến trúc này đã được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử cách mạng đấu tranh dành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trải qua thời gian, cùng với sự bào mòn của thiên nhiên và ảnh hưởng trong quá trình sử dụng nên di tích chỉ còn công trình kiến trúc tương đối nguyên vẹn.
ĐÌNH PHONG THẠNH
Trong những cuộc di dân vào vùng đất Khánh Hòa, có một nhóm người gốc Bình Định đã định cư ở Suối Ré - tức làng Phong Thạnh ngày nay. Các vị tiền nhân đến khai hoang lập ấp, sinh sống ở đây đã xây dựng đình từ khi nào không ai trong làng còn nhớ rõ. Căn cứ vào sắc phong còn lưu giữ ở đình lâu đời nhất là sắc đời vua Thiệu Trị năm thứ 3 (năm 1843), có thể đoán định đình được xây dựng ....
ĐÌNH SƠN THẠNH
Đình làng Sơn Thạnh còn có tên gọi khác là đình Lễ Thạnh. Do trước kia Đình Sơn Thạnh thuộc làng Lễ Thạnh; năm 1969, dân làng Lễ Thạnh dời lên thôn Cẩm Sơn, hai thôn Cẩm Sơn và Lễ Thạnh đổi tên thành thôn Sơn Thạnh và đình Lễ Thạnh đổi tên thành Đình Sơn Thạnh từ đó đến nay.
ĐÌNH BÍCH ĐẦM
Bích Đầm đổi tên là Biển Hải, sau năm 1954 làng đổi tên là ấp Bích Đầm, tới năm 1975 đổi tên là khóm Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, quận 2, thị xã Nha Trang. Hiện nay, là tổ dân phố Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH PHƯỚC THẠNH
Theo khẩu truyền đình Phước Thạnh có từ trước khi khởi nghĩa Tây Sơn (1771 – 1795) , khoảng niên đại vào giữa thế kỷ XVIII. Ngày đó, đình được dựng lên bằng tranh tre, nứa lá để thờ bà Mẹ xứ  sở -Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi và thờ Bổn cảnh Thành Hoàng. Xưa kia, khu vực này thuộc thôn Dinh Thành, nay thuộc tổ 13, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĨNH XUÂN
Đình Vĩnh Xuân trước đây là miếu thờ Thiên Y A Na, tồn tại lâu đời trên mảnh đất Vĩnh Xuân, Vĩnh Thái, đã trải qua nhiều thăng trầm cùng cuộc sống của người dân làng Vĩnh Xuân. Xưa kia, nơi đây chỉ là một gò đất cao, có vài nóc nhà tranh tre và người dân địa phương đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ bằng tranh tre, nứa lá để thờ Thiên Y A Na, thổ địa với mong muốn phù hộ cho dân làng làm ăn sinh sống.