Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH ĐẠI ĐIỀN TRUNG

03/07/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Đại Điền Trung thuộc thôn Đại Điền Trung 2 (Trung 2), xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.Dưới triều Nguyễn, Diên Điền ngày nay là một phần của xã Đại An, phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, đến đời vua Tự Đức (1848 – 1883) dân số xã Đại An tăng lên nên đã được chính quyền địa phương chia thành bốn làng(thôn) thuộc xã Đại Điền: Đại Điền Đông, Đại Điền Tây, Đại Điền Nam, và Đại Điền Trung, mà ngày nay mọi người vẫn quen gọi là “Tứ thôn Đại Điền”. Đình làng cũng được chia thành bốn phần cho bốn làng: Đại Điền Đông lãnh Chính điện, Đại Điền Nam lãnh phần miếu Tiền hiền, Đại Điền Trung lãnh phần Bái đường, Đại Điền Tây lãnh phần nhà Đông và từ đó đình Đại Điền Trung ra đời, tồn tại cho đến ngày nay.

Đình Đại Điền Trung quay hướng Đông Nam, được xây dựng trong khuôn viên rộng  1.747m2 . Tuy đã được trùng tu tôn tạo, nhưng đình vẫn được giữ lại bộ kết cấu khung gỗ, những mảng chạm khắc, hoa văn trang trí và sân đình có nhiều cây bàng cổ thụ tỏa bóng mát tạo không gian thoáng đãng, mát mẻ và trở thành nơi sinh hoạt, hội họp của các cụ già và các cháu thiếu nhi trong thôn nói riêng và xã Diên Điền nói chung.

Chính điện đình Đại Điền Trung

 

Đình Đại Điền Trung được xây dựng trên khu đất cao ráo giữa làng, lưng dựa núi Đại An. Dân làng Đại Điền Trung đã xây hồ bán nguyệt phía trước theo quan niệm “Tiền thủy hậu sơn” là thế đất tốt cho đình làng. Hồ bán nguyệt nằm ngay sát hương lộ 5, với chiều dài 19m, rộng 10m trên một trục thẳng với Nghi môn và Đại đình.

Từ ngoài nhìn vào di tích có các hạng mục công trình sau: Hồ bán nguyệt và cột cờ, Nghi môn và tường bao,  Án phong, Đại đình, Miếu Tiền hiền, Miếu Sơn lâm, nhà Đông,  nhà bếp.

Mặt bằng tổng thể đình Đại Điền Trung

 

Trải qua thời gian, đình Đại Điền Trung cũng không tránh khỏi nạn thiên tai, địch họa, năm 1912 một cơn bão đi qua đã làm sập đình và từ đó đến nay đã được tu bổ nhiều lần vào các năm:
- Năm 1912: bão làm sập đình, miếu Tiền hiền, nhà bếp nên ông Nguyễn Thập chức sắc trong làng đã vận động dân làng dựng lại đình bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương.
- Năm 1956: xây lại đình, thay ngói âm dương bằng ngói móc và làm hồ bán nguyệt, xây miếu ông Hổ, nhà bếp, hội trường, tường rào, Nghi môn, Án phong.
- Năm 1966: xây lại miếu Tiền hiền, Nghi môn…
- Năm 1990: thay hệ mái, rui mè, trát lại vách tường, thay máng nước giữa Tiền tế và Chính điện, lắp hệ thống điện chiếu sáng …
- Năm 1995: trùng tu đình.
- Năm 2007: thay ngói ở đình, xây lại bếp…

Ngày nay, đình Đại Điền Trung thờ Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền, Sơn lâm chúa tướng.

Hiện nay, đình còn lưu giữ các hoành phi, câu đối, chuông, lư hương, chân đèn, mõ… nhưng không còn sắc phong nào do bị cháy(mất) trong chiến tranh. Theo các cụ hào lão kể lại: đình có ba sắc phong, nhưng trong những năm chống thực dân Pháp (1945 – 1954) đình bị thiêu hủy nên đến nay đình không còn lưu giữ được sắc phong nào.

Theo truyền thống hàng năm lễ hội đình Đại Điền Trung diễn ra hai ngày từ mồng 9/3 đến 10/3 Âm lịch. Đây là lễ cúng Xuân cầu an. Nếu có hát bội thì lễ hội kéo dài từ ba đến bốn ngày.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đình Đại Điền Trung trở thành nơi triệu tập dân làng tham gia mít tinh, biểu tình, nuôi dấu cán bộ cách mạng. Trong phong trào cách mạng tháng 8/1945 dân làng đã tập hợp tại đình và kéo đến dinh Tuần vũ ở Thành Diên Khánh hỗ trợ Việt Minh các Tổng giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên diễn ra trên cả nước (6/1/1946), đình Đại Điền Trung được vinh dự chọn làm một cụm bầu cử của địa phương và đây trở thành ngày hội lớn của toàn dân.

Năm 1965, qua gần một năm đồng khởi, Ta đã giải phóng được bảy xã: Diên Sơn, Diên Điền, Diên Lâm, Diên Thọ, Diên Phước, Diên Lộc, Diên Phú. Vùng giải phóng nằm sát các cơ quan đầu não của địch. “Tại xã Diên Điền đã xây dựng Đài liệt sỹ cao 10mét uy nghi, sừng sững đứng tại sân đình Đại Điền Trung. Mặc dù kẻ thù dùng bom đạn đánh phá, nhưng biểu tượng đài liệt sỹ ra đời trong khói lửa chiến tranh vẫn sống mãi và là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần rất lớn cho cán bộ và nhân dân trong cuộc chiến đấu một mất, một còn với kẻ thù. Những việc làm đó mang ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, cổ vũ mạnh mẽ đến tinh thần yêu nước của nhân dân và tác động đến tâm lý của binh lính Nguỵ, từ đó Ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận.”(1)

Ghi nhận những thành tích đáng trân trọng trên của xã Diên Điền, Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng III.

Ngày 18/11/2008, đình Đại Điền Trung được UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng di tích Lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, tại Quyết định số 2852/QĐ-UBND.

                                                                             Nguyễn Thị Hồng Tâm

(1) Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Diên Khánh (1930 – 1975).Huyện ủy Diên Khánh. 1995, tr 150,151.

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                     

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH PHÚ THỌ
Đình Phú Thọ tọa lạc tại tổ dân phố Phú Thọ 3, phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hoà. Từ trung tâm thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1A, đi về phía Bắc ....
ĐÌNH ĐIỀM TỊNH
Đình Điềm Tịnh ra đời, tồn tại gắn liền với những lần thay đổi mảnh đất và con người làng Điềm Tịnh ngày nay. Thuở mới lập, làng có tên là Xuân An xã; đến triều vua Thiệu Trị, làng đổi tên là làng Điềm An; sau đó, làng lại tiếp tục đổi thành làng An Thạch Đông; sau một thời gian đổi thành làng Điềm Tĩnh; đến triều vua Tự Đức, làng có tên gọi là làng Điềm Tịnh[1].
ĐÌNH TRÀ LONG
Đình Trà Long khởi dựng khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, ở Đồng Lác, là nơi người dân đến khai hoang phát nương làm rẫy. Lúc đó, đình được dựng bằng tranh tre, nứa lá. Sau một thời gian, làng xóm phát triển và dân cư tập trung đông đúc ở khu vực Ba Ngòi, cùng lúc đình bị xuống cấp nên dân làng dời đình về khu đất gần bờ biển (xóm Trà Long cũ – phía nam cầu Trà Long hiện nay).
TRỤ SỞ UỶ BAN NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÂM THỜI HUYỆN BA NGÒI
Di tích Trụ sở UBND Cách mạng lâm thời huyện Ba Ngòi ngày nay thuộc tổ dân phố Xóm Cồn, phường Cam Linh, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Công trình kiến trúc này đã được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử cách mạng đấu tranh dành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trải qua thời gian, cùng với sự bào mòn của thiên nhiên và ảnh hưởng trong quá trình sử dụng nên di tích chỉ còn công trình kiến trúc tương đối nguyên vẹn.
ĐÌNH PHONG THẠNH
Trong những cuộc di dân vào vùng đất Khánh Hòa, có một nhóm người gốc Bình Định đã định cư ở Suối Ré - tức làng Phong Thạnh ngày nay. Các vị tiền nhân đến khai hoang lập ấp, sinh sống ở đây đã xây dựng đình từ khi nào không ai trong làng còn nhớ rõ. Căn cứ vào sắc phong còn lưu giữ ở đình lâu đời nhất là sắc đời vua Thiệu Trị năm thứ 3 (năm 1843), có thể đoán định đình được xây dựng ....
ĐÌNH SƠN THẠNH
Đình làng Sơn Thạnh còn có tên gọi khác là đình Lễ Thạnh. Do trước kia Đình Sơn Thạnh thuộc làng Lễ Thạnh; năm 1969, dân làng Lễ Thạnh dời lên thôn Cẩm Sơn, hai thôn Cẩm Sơn và Lễ Thạnh đổi tên thành thôn Sơn Thạnh và đình Lễ Thạnh đổi tên thành Đình Sơn Thạnh từ đó đến nay.
ĐÌNH BÍCH ĐẦM
Bích Đầm đổi tên là Biển Hải, sau năm 1954 làng đổi tên là ấp Bích Đầm, tới năm 1975 đổi tên là khóm Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, quận 2, thị xã Nha Trang. Hiện nay, là tổ dân phố Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH PHƯỚC THẠNH
Theo khẩu truyền đình Phước Thạnh có từ trước khi khởi nghĩa Tây Sơn (1771 – 1795) , khoảng niên đại vào giữa thế kỷ XVIII. Ngày đó, đình được dựng lên bằng tranh tre, nứa lá để thờ bà Mẹ xứ  sở -Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi và thờ Bổn cảnh Thành Hoàng. Xưa kia, khu vực này thuộc thôn Dinh Thành, nay thuộc tổ 13, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĨNH XUÂN
Đình Vĩnh Xuân trước đây là miếu thờ Thiên Y A Na, tồn tại lâu đời trên mảnh đất Vĩnh Xuân, Vĩnh Thái, đã trải qua nhiều thăng trầm cùng cuộc sống của người dân làng Vĩnh Xuân. Xưa kia, nơi đây chỉ là một gò đất cao, có vài nóc nhà tranh tre và người dân địa phương đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ bằng tranh tre, nứa lá để thờ Thiên Y A Na, thổ địa với mong muốn phù hộ cho dân làng làm ăn sinh sống.