Hotline: (0258) 3813 758

LĂNG LƯƠNG HẢI

06/08/2018 00:00        
Đọc tin

Lăng Lương Hải thuộc Tổ dân phố 15 Lương Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.

Xưa kia, địa danh đó còn có tên là làng Cát Ném, vào đầu triều Nguyễn là một phần đất của An Lương xã, thuộc tổng Hạ, huyện Quảng Phước, phủ Bình Hòa. Làng Cát Ném là vốn một vùng đất hoang, chỉ có cây cỏ dại mọc. Hai cụ tiền bối Nguyễn Văn Lộc và Ngô Văn Lương đến đây, nhận thấy địa thế phù hợp cho việc đánh bắt hải sản (làm ngư nghiệp) nên cất trại, dựng nhà, dần dần dân cư  quy tụ về định cư đông đúc, họ lập thành làng, thành ấp.

Lăng Lương Hải được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, do hai cụ Nguyễn Văn Lộc (còn gọi là ông Xù) và cụ Ngô Văn Lương người thôn Cát Ném đứng lên vận động nhân dân xây dựng. Ban đầu Lăng làm bằng mái tranh, vách đất, sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ để làng có nơi thờ Ông Nam Hải, cầu phước cho nhân dân trong làng bình an. Lăng được xây bằng đá san hô, vôi vữa nước nhớt trộn với mật đường và lợp ngói âm dương, mang dáng dấp cổ kính đặc trưng của kiến trúc lăng Ông các làng ven biển.

Mặt bằng tổng thể lăng Lương Hải

 

Lăng Lương Hải tọa lạc trên một khuôn viên rộng, bằng phẳng, có diện tích 1500,1 m2, mặt quay lăng hướng Đông. Lăng gồm các hạng mục, công trình: Nghi môn, miếu Hà Bá và Sơn lâm, Án phong, Võ ca, Tiền tế, Chính điện, nhà Đông, miếu Cô Hồn, lăng Ông Nam Hải.

Trên Nghi môn có đôi câu đối bằng chữ Hán Nôm ca ngợi công đức Ông Nam Hải:

      Phiên âm:   Nam Hải nghiêm lăng, cảm ứng giáng lâm phong ba cứu hộ,
                         Trấn đường linh miếu, trung thần phò trì quốc thái dân an.
       Dịch nghĩa: Lăng Nam Hải nghiêm trang, cảm ứng giáng lâm, gió sương cứu hộ,
                        Miếu thiêng trấn giữ đó, trung thần phò giúp, nước mạnh dân giàu.

Ban thờ hội đồng tại lăng Lương Hải 

 

Chính điện gồm hai phần hiên phía ngoài và khu thờ tự phía trong. Hai góc hồi của hiên có hai ban thờ môn thần. Phía trong Chính điện gồm năm ban thờ; chính giữa là ban thờ Hội đồng; hai bên của ban thờ Hội đồng là ban thờ Nam Hải và Thủy Long thần nữ; hai bên của ban thờ Nam Hải và Thủy Long là hai ban thờ Tiền bối, Hậu bối và Tiền hiền, Hậu hiền.
Kiến trúc chính điện theo lối cổ truyền của người Việt

 

Kiến trúc Chính điện: được thiết kế theo lối kiến trúc cổ truyền của người Việt. Hệ thống chịu lực gồm bốn chiếc cột cái, mỗi cột (đường kính 25cm, cao 8,5m); hai cột trước để trơn, hai cột sau trang trí “Rồng cuốn thân cột”. Bốn cột liên kết với hệ thống vì, hoành, rui, mè… cùng với các bức tường nâng đỡ hệ mái.

Ngoài nét đẹp độc đáo về  nghệ thuật kiến trúc, lăng Lương Hải còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa: ba sắc phong do vua triều Nguyễn ban tặng, tư liệu Hán Nôm, long đình, lọng, chiêng, trống, mõ, nghi thức, nghi lễ cúng, văn tế, nhạc lễ, trang phục…Đặc biệt lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức vào ngày 16/2 (Âm lịch).

Ba sắc phong của lăng Lương hải gồm:
+ Sắc Duy Tân 5 (1911) phong cho Thành hoàng và Nam Hải Cự tộc Ngọc lân chi thần.
+ Sắc Duy Tân 5 (1911) phong cho Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi.
+ Sắc Khải Định 2 (1917) phong cho Thủy Long thần nữ.

Lăng Lương Hải là một trong những lăng Ông ra đời sớm trên vùng đất Khánh Hòa nói chung và vùng đất Vạn Ninh nói riêng. Lăng dựng để thờ Nam Hải, Thủy Long thần nữ, Hà Bá, Sơn Lâm… và các bậc Tiền hiền, Hậu hiền có công dựng làng, lập ấp. Ngoài giá trị về mặt lịch sử, văn hóa đánh dấu quá trình hình thành vùng dân cư mới ở Cát Ném, (Lương Hải hiện nay), điểm nổi bật nhất của di tích là giá trị kiến trúc nghệ thuật mang nét đặc trưng với những hoa văn trang trí tinh xảo, mang đậm phong cách truyền thống của địa phương vẫn còn được bảo lưu tại đây. Đặc biệt, Lăng còn lưu giữ được một loại hình văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc đó là Hò Bá Trạo. Hò Bá Trạo tại lăng Lương Hải được đánh giá còn đầy đủ và nguyên gốc ở Khánh Hòa nói riêng và khu vực Nam Trung Bộ nói chung.

Lăng Lương Hải đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 1007/QĐ-UBND, ngày 22/11/2007 xếp hạng là di tích cấp tỉnh.

Nguyễn Chí khải

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH ĐẠI ĐIỀN ĐÔNG
Đình Đại Điền Đông mở hội khoảng 02 ngày trong tháng 3 âm lịch hàng năm; ngày, giờ tổ chức được chọn theo năm chứ không có lệ. Sau phần lễ có phần hội tổ chức các trò chơi dân gian: nhảy bao bố, đổ nước vào chai, kéo co… Ngoài ra, tháng 11 âm lịch đình tổ chức cúng Thượng điền (gác cày).
MIẾU THANH TỰ ĐÔNG
Miếu Thanh Tự Đông thuộc xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Miếu Thanh Tự Đông do Tri phủ huyên Tân Định tên là Lê Kim Cảnh cùng các nhân hào thân sĩ đồng tâm xây dựng, ông cúng 6 sào đất và tiền quan để dựng đình.
CHÙA VẠN THIỆN
Cùng với sự phát triển không ngừng của Phật giáo Việt Nam, phần đất Khánh Hòa thế kỷ XVIII có thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán – sư tổ phái Thiền Tông Lâm Tế miền Trung đời thứ 35, pháp đệ của ngài là Hòa thượng Thiệt Vinh - Bửu Hạnh đã theo dòng người Nam tiến Thuận Hóa đến vùng đất mới Phủ Diên Khánh lập am tranh tu hành khai sơn chùa Phụng Thùy Sơn (nay là chùa Vạn Thiện).
MIẾU TAM TÒA
Theo dòng lịch sử, Miếu Tam Tòa gắn với nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu của làng cổ Phú Lộc. Từ cuối thế kỷ XVII, người Việt từ các tỉnh miền Trung đến định cư ở vùng đất dọc hai bờ sông Cái (thuộc thị trấn Diên Khánh), sớm hình thành nên những làng xóm trù phú của người Việt.
MIẾU THIÊN Y A NA
Miếu Bà Thiên Y A Na còn có tên gọi khác là miếu Bà Đá Chồng, miếu Bà Lỗ Đá, thuộc thôn Tân Xương 2, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 20 km về phía Tây Nam (xưa là An Lộc xã, thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh).
ĐÌNH VINH BÌNH
Đình Vinh Bình là một công trình kiến trúc còn bảo lưu được nhiều yếu tố kiến trúc gốc; đồng thời, đình còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tâm linh, nơi gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương.
ĐÌNH TRƯỜNG ĐÔNG
Đình Trường Đông tọa lạc ở Tổ dân phố 2 Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đình Trường Đông toạ lạc trên một khu đất bằng phẳng, quay về hướng Tây Nam, lấy cửa biển Cù Huân (cửa bé) làm “Tiền án”, lưng dựa vào ngọn núi Chụt vững chãi. Đình có tổng diện tích 1.124.9 m2 gồm nhiều hạng mục công trình: Nghi môn, Đình, Lăng, miếu Tiền hiền, miếu Thiên Y, miếu Các bác….
ĐÌNH TÂN PHƯỚC
Đình Tân Phước được khởi dựng khoảng đầu thế kỷ XIX, do nhu cầu của cộng đồng cư dân khi đến vùng đất mới khai hoang, lập ấp. Di tích tồn tại cùng với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Khánh Hòa nói chung và người dân Vạn Ninh nói riêng.
ĐÌNH PHÚ NÔNG
Đình Phú Nông là một ngôi đình cổ của vùng đất Khánh Hòa, chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa, tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Đặc biệt là về giá trị lịch sử, nơi đây đã ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
ĐÌNH LẬP ĐỊNH
Đình Lập Định chứa đựng nhiều giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật, các hình tượng được trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khá đồng nhất về mặt kỹ thuật cũng như phong cách, thể hiện tính đặc trưng truyền thống ở Khánh Hòa như: nghệ thuật đắp nổi: “Lưỡng Long chầu nguyệt”, “Hổ Phù”, “Hổ”, hoa văn cách điệu hình rồng, nghệ thuật hội họa về tranh phong cảnh đồng bằng và biển đảo