Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH ĐẠI TẬP

03/07/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Đại Tập tọa lạc tại thôn Đại Tập, xã Ninh Thân, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
* Đặc điểm của di tích:
Căn cứ trên đạo sắc phong sớm nhất mà đình Đại Tập được vua Tự Đức ban tặng cho đình vào năm 1852, ta có thể đoán định đình Đại Tập có niên đại vào cuối thế kỷ XVIII. Năm 1810, đình có tên là An Tập. Đến năm 1817, đình được đổi tên thành Đại Tập. Tên gọi “Đại Tập” xuất phát từ việc lấy tên thôn để đặt cho đình. “Đại Tập” mang ý nghĩa là sự tập hợp lớn.
Hiện tại, đình Đại Tập hiện còn bảo lưu được 05 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng. Điều đáng tiếc là hiện nay cả 05 đạo sắc phong đều đã bị rách nát gần hết, không còn đầy đủ về nội dung nên không thể phiên dịch được.
- Sắc phong ngày 29 tháng 11 Tự Đức năm thứ 05 (1852).
- Sắc phong ngày 24 tháng 11 Tự Đức năm thứ 33 (1880).
- Sắc phong ngày 01 tháng 7 Đồng Khánh năm thứ 02 (1887).
- Sắc phong ngày 11 tháng 8 Duy Tân năm thứ 03 (1909).
- Sắc phong ngày 25 tháng 7 Khải Định năm thứ 09 (1924).
Từ khi khởi dựng tới nay, đình Đại Tập đã trải qua ba lần trùng tu, tôn tạo vào các năm: 1920, 1956, 1990.
Đình Đại Tập thờ các vị sau: Bản Cảnh Thành Hoàng, Thổ Công, Tiền hiền, Âm linh.
* Bố cục kiến trúc di tích:
Đình Đại Tập ở cuối thôn, tọa lạc trong khu đất có tổng diện tích 2.564,99m2, mặt tiền quay về hướng Tây Nam. Từ ngoài vào trong, đình có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Nghi môn, Án phong, Chính điện, miếu Thành hoàng (còn gọi là miếu Bà), miếu Âm linh (còn gọi là miếu Cô hồn), nhà Đông.
Kết cấu khung gỗ của Chính điện gồm 4 cột cái và 8 cột quân. Vì nóc kết cấu theo kiểu vì kèo. Các cột cái ở Chính điện được sơn màu đỏ và trang trí hình rồng cuốn tròn theo thân cột rất sinh động.

Kết cấu khung gỗ theo kiểu vì kèo ở Chính điện tại đình Đại Tập

 

Hệ mái Chính điện có kết cấu 2 tầng 8 mái (mỗi tầng 4 mái gồm 2 mái trước, sau và 2 mái hồi hai bên), lợp ngói tây. Bờ nóc đắp “Lưỡng long chầu nguyệt”, các đầu đao gắn hình Lân và vân mây. Trên Cổ lầu trang trí rùa và chim phượng. Phần tường phía ngoài của 2 đầu kìm đắp dơi mang ý nghĩa cầu phúc.
Theo thông lệ, hàng năm vào ngày 15, 16/02 Âm lịch dân làng tổ chức lễ hội cúng Xuân cầu "Quốc thái dân an" tại đình Đại Tập. Lễ hội được tổ chức trong 2 ngày 01 đêm.
* Sự kiện lịch sử diễn ra tại di tích:
Đình Đại Tập cũng là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương:
- Từ năm 1945 đến năm 1954: Đình Đại Tập là nơi cán bộ cách mạng tập hợp nhân dân tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đình Đại Tập cũng là nơi tập hợp nhân dân để mở lớp bình dân học vụ, nơi tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng.
Ngày 14/10/2010, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 2631/QĐ-UBND xếp hạng Đình Đại Tập là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.

Bên trong Chính điện đình Đại Tập

Trần Thị Thanh Loan

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                    

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
ĐÌNH PHÚ THỌ
Đình Phú Thọ tọa lạc tại tổ dân phố Phú Thọ 3, phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hoà. Từ trung tâm thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1A, đi về phía Bắc ....
ĐÌNH ĐIỀM TỊNH
Đình Điềm Tịnh ra đời, tồn tại gắn liền với những lần thay đổi mảnh đất và con người làng Điềm Tịnh ngày nay. Thuở mới lập, làng có tên là Xuân An xã; đến triều vua Thiệu Trị, làng đổi tên là làng Điềm An; sau đó, làng lại tiếp tục đổi thành làng An Thạch Đông; sau một thời gian đổi thành làng Điềm Tĩnh; đến triều vua Tự Đức, làng có tên gọi là làng Điềm Tịnh[1].
ĐÌNH TRÀ LONG
Đình Trà Long khởi dựng khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, ở Đồng Lác, là nơi người dân đến khai hoang phát nương làm rẫy. Lúc đó, đình được dựng bằng tranh tre, nứa lá. Sau một thời gian, làng xóm phát triển và dân cư tập trung đông đúc ở khu vực Ba Ngòi, cùng lúc đình bị xuống cấp nên dân làng dời đình về khu đất gần bờ biển (xóm Trà Long cũ – phía nam cầu Trà Long hiện nay).
TRỤ SỞ UỶ BAN NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÂM THỜI HUYỆN BA NGÒI
Di tích Trụ sở UBND Cách mạng lâm thời huyện Ba Ngòi ngày nay thuộc tổ dân phố Xóm Cồn, phường Cam Linh, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Công trình kiến trúc này đã được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử cách mạng đấu tranh dành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trải qua thời gian, cùng với sự bào mòn của thiên nhiên và ảnh hưởng trong quá trình sử dụng nên di tích chỉ còn công trình kiến trúc tương đối nguyên vẹn.
ĐÌNH PHONG THẠNH
Trong những cuộc di dân vào vùng đất Khánh Hòa, có một nhóm người gốc Bình Định đã định cư ở Suối Ré - tức làng Phong Thạnh ngày nay. Các vị tiền nhân đến khai hoang lập ấp, sinh sống ở đây đã xây dựng đình từ khi nào không ai trong làng còn nhớ rõ. Căn cứ vào sắc phong còn lưu giữ ở đình lâu đời nhất là sắc đời vua Thiệu Trị năm thứ 3 (năm 1843), có thể đoán định đình được xây dựng ....
ĐÌNH SƠN THẠNH
Đình làng Sơn Thạnh còn có tên gọi khác là đình Lễ Thạnh. Do trước kia Đình Sơn Thạnh thuộc làng Lễ Thạnh; năm 1969, dân làng Lễ Thạnh dời lên thôn Cẩm Sơn, hai thôn Cẩm Sơn và Lễ Thạnh đổi tên thành thôn Sơn Thạnh và đình Lễ Thạnh đổi tên thành Đình Sơn Thạnh từ đó đến nay.
ĐÌNH BÍCH ĐẦM
Bích Đầm đổi tên là Biển Hải, sau năm 1954 làng đổi tên là ấp Bích Đầm, tới năm 1975 đổi tên là khóm Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, quận 2, thị xã Nha Trang. Hiện nay, là tổ dân phố Bích Đầm, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH PHƯỚC THẠNH
Theo khẩu truyền đình Phước Thạnh có từ trước khi khởi nghĩa Tây Sơn (1771 – 1795) , khoảng niên đại vào giữa thế kỷ XVIII. Ngày đó, đình được dựng lên bằng tranh tre, nứa lá để thờ bà Mẹ xứ  sở -Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi và thờ Bổn cảnh Thành Hoàng. Xưa kia, khu vực này thuộc thôn Dinh Thành, nay thuộc tổ 13, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
ĐÌNH VĨNH XUÂN
Đình Vĩnh Xuân trước đây là miếu thờ Thiên Y A Na, tồn tại lâu đời trên mảnh đất Vĩnh Xuân, Vĩnh Thái, đã trải qua nhiều thăng trầm cùng cuộc sống của người dân làng Vĩnh Xuân. Xưa kia, nơi đây chỉ là một gò đất cao, có vài nóc nhà tranh tre và người dân địa phương đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ bằng tranh tre, nứa lá để thờ Thiên Y A Na, thổ địa với mong muốn phù hộ cho dân làng làm ăn sinh sống.