Hotline: (0258) 3813 758

ĐÌNH MỸ THANH

03/07/2018 00:00        
Đọc tin

Đình Mỹ Thanh nằm giữa thôn Mỹ Thanh, thuộc xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Đình Mỹ Thanh được xây dựng khi nào không ai còn nhớ rõ, nhưng căn cứ vào sắc phong hiện còn lưu giữ ở đình, có thể ít nhất đình ra đời khoảng đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu, đình có tên là An Mỹ và được làm bằng tranh tre nứa lá, thuộc thôn An Mỹ, huyện Vĩnh Xương. Sau đó, thôn được đổi tên thành thôn Hiệp Mỹ và đầu thế kỷ XX đình đã thuộc thôn Hiệp Mỹ, đạo Ninh Thuận nhưng nhân dân địa phương gọi tục danh là đình Võ Tá. Khoảng những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, dân làng dời đình về gò Cây Trôm và sau đó mấy năm, đình được di dời đến thôn Mỹ Thanh tồn tại từ đó đến nay.

Năm 1971, đình được nhân dân địa phương xây dựng lại bằng gạch ngói vững chắc và sau đó xây dựng thêm miếu Tiền hiền. Năm 1993 tu bổ Đại đình. Năm 2001, dân làng xây dựng miếu Thần nông và Bạch Hổ.

Đình Mỹ Thanh thờ Thành hoàng, Thiên Y A Na Thánh Mẫu, Tiền hiền, Hậu hiền, Thần nông, Sơn Lâm…

Đình Mỹ Thanh quay hướng Tây Nam, nằm trong khuôn viên rộng và rợp bóng mát, với diện tích 3.525,7m2. Di tích có các kiến trúc: Nghi môn, Miếu Sơn Lâm (Bạch hổ) và miếu Thần nông, án phong, đại đình, miếu Tiền hiền, Nhà bếp và nhà kho.

Miếu Tiền hiền có cặp câu đối với hai chữ đầu được ghép từ tên đình:
Phiên âm:
Mỹ địa nguy nga vạn cổ công đầu hương lý hảo,
Thanh thiên khoáng diễn thiên niên quang thái đẩu sơn cao.
Dịch nghĩa:
Đất đẹp nguy nga, muôn thuở góp công nên thôn ấp,
Trời trong khoáng đạt, ngàn năm rạng rỡ núi non cao.

Đình còn lưu giữ bảy sắc phong và các câu đối, lư hương, chiêng trống, mõ…trong đó, có quyển vở viết tay bằng chữ Hán Nôm về các văn tế của đình Mỹ Thanh. Các sắc phong do các đời vua triều Nguyễn ban, cho phép nhân dân tiếp tục thờ cúng các vị thần tại đình, miếu gồm:
- Tự Đức năm thứ 5 (1852) phong cho Thành hoàng;
- Tự Đức năm thứ 33 (1880) phong cho Thành hoàng;
- Đồng Khánh năm thứ hai (1887) phong cho Thành hoàng;
- Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong cho Thành hoàng;
- Duy Tân năm thứ 5 (1911) phong cho Thiên Y A Na;
- Khải Định năm thứ 9 (1924) gồm hai sắc phong cho Bổn cảnh Thành hoàng và Thiên Y A Na.

Hàng năm, đình Mỹ Thanh tổ chức cúng Xuân vào hai ngày mồng 9 và mồng 10/3 âm lịch. Theo truyền thống, cứ hai năm đình làng mở hội một lần, kéo dài trong bốn ngày 10, 11 và 12 tháng 3 âm lịch và tổ chức hát bội. Nghi lễ diễn ra trong lễ hội có lễ nghinh cô hồn ở 4 nơi về đình tế lễ: đình Võ Tá (địa điểm đình cũ), miếu Bà (gần đa, nơi giáp ranh với tỉnh Ninh Thuận), nghĩa địa lô 2, nghĩa trang Dốc Rùa.

Mỹ Thanh là ngôi làng nằm giáp ranh với tỉnh Ninh Thuận và trong lịch sử đã có lúc thuộc đạo Ninh Thuận (nửa đầu thế kỷ XX). Vì vậy, ngôi đình là chứng tích thể hiện sự thăng trầm của Mỹ Thanh nói riêng và xã Cam Thịnh Đông nói chung trong lịch sử. Đình làng là công trình kiến trúc mang dáng dấp đình làng truyền thống của Khánh Hòa, tuy đơn sơ nhưng ngôi đình thể hiện tính mộc mạc, chân chất của con người nơi đây, không cầu kỳ, phô trương mà bình dị, gần gũi.

Mặt bằng tổng thể của đình

Năm 2013, UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng đình Mỹ Thanh là Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.                                                                                                              

 Nguyễn Thị Hồng Tâm

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                     

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá:
 

Tin khác

breaker
LĂNG ÔNG- ĐỀN BÀ CAM XUÂN
Lăng Ông - miếu Bà ra đời khoảng đầu thế kỷ XIX. Nghề nghiệp chủ yếu của dân làng là đánh bắt thuỷ hải sản nên khi xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo, vị thần họ tôn thờ cũng gắn liền với nghề nghiệp của họ là thần Nam Hải. Làng nào vừa làm nông nghiệp vừa làm ngư nghiệp thường có thêm một vị thần nữa, nên làng Thạch An ngoài vị thần Nam Hải còn thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na.
ĐỊA ĐIỂM DI CHỈ KHẢO CỔ HÒA DIÊM
Hoà Diêm là di tích nằm trên cồn cát cao, cuộc sống phụ thuộc vào nguồn nước ngọt cuả con sông Tà Lưa và các bàu nước xung quanh vịnh Cam Ranh. Vì ở sát biển nên thức ăn chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn biển như sò, ốc, hàu, cá… là “Văn hoá cồn sò điệp” tích tụ trong tầng văn hoá dày đặc vỏ nhuyễn thể biển; thêm nữa các vết tích xương, răng động vật từ Biển – Núi là thức ăn chính của cư dân ở đây.
ĐÌNH TRÀ LONG
Đình Trà Long khởi dựng khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, ở Đồng Lác, là nơi người dân đến khai hoang phát nương làm rẫy. Lúc đó, đình được dựng bằng tranh tre, nứa lá. Sau một thời gian, làng xóm phát triển và dân cư tập trung đông đúc ở khu vực Ba Ngòi, cùng lúc đình bị xuống cấp nên dân làng dời đình về khu đất gần bờ biển (xóm Trà Long cũ – phía nam cầu Trà Long hiện nay).
TRỤ SỞ UỶ BAN NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÂM THỜI HUYỆN BA NGÒI
Di tích Trụ sở UBND Cách mạng lâm thời huyện Ba Ngòi ngày nay thuộc tổ dân phố Xóm Cồn, phường Cam Linh, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Công trình kiến trúc này đã được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử cách mạng đấu tranh dành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trải qua thời gian, cùng với sự bào mòn của thiên nhiên và ảnh hưởng trong quá trình sử dụng nên di tích chỉ còn công trình kiến trúc tương đối nguyên vẹn.
ĐÌNH BÌNH BA
Đình Bình Ba tọa lạc trên một khu đất rộng bằng phẳng của thôn Bình Ba Tây, thuộc xã Cam Bình, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, nằm cách cảng Đá Bạc (Cam Ranh) khoảng 13 hải lý. Đình Bình Ba có niên đại khoảng giữa thế kỷ XIX, trải qua thời gian với những tác động của nhiều nguyên nhân đình bị hư hỏng nặng, năm 1991 trùng tu nhà tiền tế và nghi môn, năm 2009 trùng tu mái hậu điện.
ĐÌNH KHÁNH CAM
Đình Khánh Cam có kết cấu kiến trúc mang đậm nét kiến trúc truyền thống vùng đất Khánh Hòa; hoa văn trang trí chủ yếu bằng các họa tiết vẽ, đắp nổi các linh vật như: tứ linh, tứ quý, cảnh quan thiên nhiên sông nước, núi non sơn thủy hữu tình…
LĂNG NAM HẢI BÌNH BA
Làng Bình Ba nằm dưới chân của 3 ngọn núi chụm lại, là núi Ma Du, Hòn Cò và Mũi Nam. Truyền thuyết của ngư dân nơi đây kể lại rằng: núi Ma Du sở dĩ có tên gọi như vậy là vì xưa kia ở đây có người nấu rượu và ông ta sợ kẻ trộm tới cắp rượu nên đã đặt tên núi là “Ma Du” để hù dọa kẻ trộm khỏi lui tới; núi Hòn Cò là do chim cò thường tới đây ở, nên nhân dân gọi là Hòn Cò; núi Mũi Nam là do nằm về phía Nam của làng