Lăng Nam Hải Bình Ba nằm trên đảo Bình Ba, thuộc xã Cam Bình, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.
Làng Bình Ba nằm dưới chân của 3 ngọn núi chụm lại, là núi Ma Du, Hòn Cò và Mũi Nam. Truyền thuyết của ngư dân nơi đây kể lại rằng: núi Ma Du sở dĩ có tên gọi như vậy là vì xưa kia ở đây có người nấu rượu và ông ta sợ kẻ trộm tới cắp rượu nên đã đặt tên núi là “Ma Du” để hù dọa kẻ trộm khỏi lui tới; núi Hòn Cò là do chim cò thường tới đây ở, nên nhân dân gọi là Hòn Cò; núi Mũi Nam là do nằm về phía Nam của làng. Còn chữ Bình Ba, thì theo người dân kể lại cho con cháu: chữ “Bình” có thể là “bình yên” hoặc Bình Định vì họ cho rằng cha ông họ di cư từ vùng đất Bình Định vào đây sinh sống, lập nghiệp từ khoảng cuối thế kỷ 17 đầu thế 18. Sau khi quy dân, lập làng, dân cư ngày một đông đúc, sống bằng nghề đi biển đánh bắt hải sản. Khoảng đầu thế kỷ 18, dân làng cất lăng Nam Hải bằng tranh tre, vách đất để phụng thờ “ông Nam Hải”, trải qua thời gian lăng dần được tu bổ, đến năm 1992 sửa chữa lớn và xây lăng quy mô như ngày nay.
Hiện nay, Lăng còn lưu giữ 04 sắc phong do các đời vua triều Nguyễn ban tặng:
- Sắc Tự Đức năm thứ 33 (1980) phong cho Ông Nam Hải
- Sắc Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong cho Ông Nam Hải
- Sắc Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong cho Ông Nam Hải
- Sắc Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho Ông Nam Hải
Lăng Nam Hải Bình Ba nằm gần mép nước biển phía Nam của làng, Lăng được xây dựng đồ sộ, quy mô bằng đá san hô, gạch vôi vữa. Lăng có kết cấu kiểu chữ “Nhị” (=), phía trước là Tiền tế, trong là chính điện (điện thờ). Lăng quay hướng Bắc, lưng dựa vào núi, ba phía xung quanh là khu dân cư sinh sống.
Nhìn tổng thể từ ngoài vào, lăng Nam Hải Bình Ba có các hạng mục công trình sau: Nghi môn, án phong, võ ca, tiền tế, chính điện và nhà đông.
Nghi môn (cổng): xây dựng lớn với 3 cửa ra vào, ở giữa là cửa lớn, hai bên là cửa nhỏ hơn, phía trên xây hệ mái theo kiểu Cổ lầu chồng diêm, mái đắp ngói giả kiểu ngói liệt; trên bờ nóc gắn hình lưỡng long tranh châu, đầu hồi của mái đắp hình đầu hổ phù, từ cột ngoài của nghi môn xây tường bao hình vuông xung quanh Lăng. Bên trong nghi môn là án phong lớn xây cách điệu, ở giữa là án, hai bên là cửa uốn vòm đi vào trong, trên đầu trụ của án phong đắp hình 4 búp Sen, mặt trước vẽ hình một con rồng, mặt trong vẽ hình chữ “Phúc”.
Võ ca chỉ xây nền cao, rộng gần hết sân Lăng, không xây tường bao cũng không làm hệ mái.
Lăng gồm hai phần: Tiền tế và chính điện xây liền kề với nhau, nhà xây kiểu nhà tường hồi bít đốc. Mặt trước tiền tế có 3 cửa lớn, các cánh cửa này không làm cánh cửa mà dùng các ván gỗ ghép lại khi cần đóng. Trên đầu cửa giữa đắp cuốn thư lớn, trên đắp hình “Lưỡng long tranh châu”, mặt trước vẽ tranh “kết nghĩa vườn đào” giữa Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi, cảnh Bát Tiên, Quan Công kích Tào, Quan Công phò nhị tẩu…
Chính điện xây liền kề với tiền tế, mặt trước để thông không xây tường bao. Bên trong đặt bàn thờ lớn, trên đặt long ngai bằng gỗ, bên dưới đặt các hòm (quách) đựng cốt (xương) cá voi, ở giữa là một cái hòm gỗ lớn dài 2,60m, rộng 1,36m, cao 0,90m bên trong đựng xương đầu cá voi, bên cạnh đặt 16 cái hòm nhỏ hơn đựng xương cá voi đã trôi dạt vào đây qua nhiều thế hệ.
Lễ cúng trong năm diễn ra tại lăng Nam Hải Bình Ba nhiều lần như: cúng mở cửa Lăng, cúng Ông Nhỏ, cúng Cô nhập Lăng… Đặc biệt, ngày 10 tháng 7 âm lịch hàng năm tổ chức đại lễ và cứ 2 năm thì tổ chức hát bội (có năm hát 4 ngày đêm).
Tín ngưỡng thờ cá voi (Ông Nam Hải) độc đáo của ngư dân sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản trên dải đất miền Trung chứa đựng những giá trị về văn hóa sinh hoạt tâm linh của cư dân ven biển.
Năm 2006, UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng Lăng Nam Hải Bình Ba là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Hoàng Quý
Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây: