Hotline: (0258) 3813 758

ĐỀN TRẦN QÚY CÁP

04/09/2018 00:00        
Đọc tin

Đền Trần Quý Cáp tọa lạc tại thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đền được xây dựng ở khu vực Gò Chết Chém, cách cầu Sông Cạn (nay là cầu Trần Quý Cáp) khoảng 50m về phía Nam và cách di tích Thành Diên Khánh 1km về phía Tây Bắc.

Trần Quý Cáp tự là Thích Phu, hiệu Thái Xuyên, sinh năm 1870 tại thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp từ nhỏ đã thể hiện là người thông minh, học giỏi, ham hiểu biết và có chí khí lớn. Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh xã  hội Việt Nam đầy biến động, ngay từ khi 13 tuổi ông đã chứng kiến đám tang của Tổng đốc Hoàng Diệu, khi Thành Thăng Long thất thủ (1882); ba năm sau ông lại chứng kiến các văn thân, nho sĩ ở quê hương hưởng ứng phong trào Cần Vương yêu nước của vua Hàm Nghi.

Năm 1904, ông đi thi và đậu tiến sĩ cùng với Huỳnh Thúc Kháng[1]. Lúc này, ở nước ta nền Nho học đang thoái trào, nền tân học bắt đầu khởi xướng. Trần Quý Cáp thường xuyên giao lưu với cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nghiên cứu những sách báo mới, những tư tưởng tiến bộ, đề cao tân học, thông qua cải cách giáo dục để nâng cao dân trí, ý thức dân quyền, tự lực tự cường dân tộc. Tại Quảng Nam, Phan Chu Trinh đã cùng với các đồng chí của mình trong đó có Trần Quý Cáp sáng lập ra tổ chức Duy Tân hội. Duy Tân hội đã chọn lọc nhiều thanh niên ưu tú để đưa sang Nhật Bản học tập làm nòng cốt cho phong trào cách mạng nước nhà sau này. Trần Quý Cáp cùng với một số trí thức trong vùng đã thành lập “Tân Hội học” và được nhân dân hưởng ứng đông đảo.

Năm 1906, ông cùng một số người thành lập hội nông học, hội thương, trường học…, ông còn làm thơ và các bài ca khuyến thương, khuyến nông, khai hoang vỡ hóa đất đai để sản xuất nông nghiệp theo phương thức mới, tiến bộ. “ Bài ca chiêu hồn nước” còn gọi là “khuyến học” (học để tự cường), kêu gọi mọi người học chữ Quốc ngữ để nâng cao dân trí.

Ông đã mở các lớp Tân học, rước thầy dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ngay trong trường Phủ. Ông có nhiều đóng góp cho phong trào Duy Tân, luôn tuyên truyền và đề cao tân học, bài xích cử nghiệp, xóa bỏ những thủ tục lạc hậu lỗi thời, chính vì vậy bọn quan lại phong kiến đã lấy cớ chuyển ông về Tân Định (thị xã Ninh Hòa - Khánh Hòa ngày nay) làm Giáo thọ. Tại đây, ông vẫn tiếp tục liên hệ với bạn bè ở quê và theo đuổi chí hướng của mình. Bọn quan lại ở đây rất căm tức và tìm mọi cách hãm hại ông, chúng thường xuyên cho tay chân mật thám theo dõi và kiểm soát thư từ, giấy tờ của ông một cách chặt chẽ. Nhân một lần nhận được thư nhà thông báo tình hình đấu tranh của nhân dân, ông ghi vào bức thư 7 chữ “ngô dân thử cử, khoái khoái khoái”. Thấy rõ đây là cơ hội lớn để sát hại người mà chúng theo dõi từ lâu, chúng bắt ông giữa lúc ông đang dạy học và đưa về giam tại nhà lao Thành Diên Khánh – lúc đó là thủ phủ của Khánh Hòa. Án của Trần Quý Cáp nhanh chóng được phê chuẩn: Mưu vãn tha quốc và truyền xử với tội hình “Trảm nêu”.

Đúng 9h sáng ngày 15/06/1908 (tức ngày 17/5 âm lịch) tại khu vực Gò Chết Chém, cách đền thờ hiện nay khoảng 50m, Trần Quý Cáp bị đưa ra xử tử. Trần Quý Cáp đã tỏ rõ thái độ dũng cảm hiên ngang trước cái chết mà không chút sợ hãi. Bị giặc giải đến nơi hành quyết, Trần Quý Cáp vẫn bình thản, giằng khăn bịt mặt, đòi đặt 01 hương án ngoảnh mặt về hướng Bắc, lạy tạ quê hương xong rồi lạy tạ quốc dân, chào những người đến tiễn biệt rồi khẳng khái giơ đầu cho chém, nét mặt không hề biến sắc mà vẫn điềm đạm, trang nghiêm như khi giảng sách, bình văn cho học trò.

Trước cái chết của Trần Quý Cáp, không những nhân dân rất thương cảm, phẫn uất mà ngay cả các quan lại công chức đương thời cũng thấy xót xa, khâm phục ý chí của nhà chí sỹ yêu nước.

Trần Quý Cáp mặc dù không phải là người sinh ra và lớn lên trên đất Khánh Hòa nhưng cuộc đời, sự nghiệp và sự ra đi của ông gắn với mảnh đất Xứ Trầm hương. Rõ ràng là cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân không thuộc về riêng một ai, mà ông thuộc về Tổ quốc, về nhân dân Việt Nam anh hùng!

Bởi lẽ đó nhân dân Khánh Hòa thương xót ông, nhân dân Việt Nam thương khóc trước vong linh của ông. Một đời ông vì dân vì nước, hết lòng vì hoài bão lớn lao: canh tân đất nước để dân ta ngày càng tiến bộ và phát triển về mọi mặt.

Tổ Quốc biết ơn ông, nhân dân nhớ thương ông. Ngày nay, tên tuổi ông được đặt tên cho các con đường, trường học … trên cả nước. Năm 1970, nhân dân  Khánh Hòa lập đền thờ Trần Quý Cáp cùng với hai người lãnh đạo phong trào Cần Vương Khánh Hòa là Bình Tây đại tướng Trịnh Phong và Tham tán Quân vụ Nguyễn Khanh, bên cầu sông Cạn gọi là “Trung liệt điện”. Đền tọa lạc trên khu vực có tục danh “Gò Chết Chém” – nơi kẻ thù đã từng giết hại biết bao người con yêu nước và chiến sĩ Cần Vương. Vào thời điểm đó, đất nước ta còn đang chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược nên việc xây dựng đền thờ Trung liệt điện càng mang ý nghĩa cổ vũ phong trào yêu nước chống ngoại xâm, đề cao tấm gương những người anh dũng hy sinh vì Tổ quốc.


Mặt bằng tổng thể Đền Trần Quy Cáp

 

Năm 2003, nhân dịp kỉ niệm 350 năm thành lập tỉnh Khánh Hòa và để thuận tiện cho việc xây dựng lại cầu sông Cạn (nay là cầu Trần Quý Cáp), đền đã được di dời lui vào phía trong cách khu đền cũ khoảng 50m. Ngôi đền được tôn tạo với quy mô lớn hơn. Đền có diện tích 54m2, trước sân có cột cờ cao hơn 3m và được xây dựng tương đối đơn giản, tuy nhiên vẫn theo kết cấu kiến trúc truyền thống như: có cổ lầu, trên các góc mái gắn hoa văn trang trí hình rồng chầu, mái lợp ngói mũi hài. Đền quay hướng Đông, xung quanh đền được trồng một số cây cảnh tạo cảnh quan tao nhã, bình dị và gần gũi. Bên cạnh đền là cây lồng mức cổ thụ, nơi ghi dấu tội ác của chế độ thực dân phong kiến đã xử tử biết bao chiến sĩ trong các phong trào cách mạng nước ta; phía trên trước mặt đền đắp nổi 3 chữ “TRUNG LIỆT ĐIỆN”.

 

Ban thờ và hệ cửa được thiết kế hoàn toàn bằng gỗ nên trông cổ kính và ấm cúng. Trên ban thờ đặt 01 linh vị thờ chí sĩ Trần Quý Cáp, Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong và Tham tán Quân vụ Nguyễn Khanh. Phía trên Chánh điện đắp 4 chữ Hán “Trung Nghị Cảm Nhân”, có nghĩa: “Tấm lòng trung nghĩa quả quyết đã cảm hóa được mọi người”. Hai bên ban thờ đắp nổi cặp câu đối ca ngợi các tinh thần những nhà yêu nước:

Phiên âm:
Vi thân hồ, vi gia hồ, vi thiên hạ hồ, thiện chí anh hùng do vị bạch
Thử thiên giả, thử địa giả, thử giang sơn giả, oan hàm tuyền ngưỡng (..) năng minh

Dịch nghĩa:
Vì thân ư, vì nhà ư, vì thiên hạ ư, chuộng chí anh hùng còn chưa tỏ
Trời này đấy, đất này ấy, giang sơn này đấy ngậm oan chín suối đã tường minh.

Hai bên tường hồi giới thiệu một số hình ảnh về lăng mộ ở quê hương Trần Quý Cáp và văn thơ các bạn đồng lứa khóc thương cụ Trần khi nghe tin ông bị xử tử ở Khánh Hòa.

Hàng năm cứ vào ngày 16/5 âm lịch tại đền Trần Quý Cáp diễn ra lễ tưởng niệm cụ Trần Quý Cáp tri ân những thế hệ đi trước; đồng thời ôn lại truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”của dân tộc Việt Nam.

Ghi nhận những đóng góp và sự hi sinh của Trần Quý Cáp đối với dân tộc, năm 1991, đền Trần Quý Cáp đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định số 1548 – QĐ ngày 30/8/1991, xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia.

                                                                                                                                                  Nguyễn Thị Thúy Hằng

[1] hiện nay còn bia đề danh tiến sĩ tại cố đô Huế.

Quét mã QR để xem vị trí di tích tại đây:

                   

Bài viết được đánh giá:
Tổng số đánh giá: 1
 

Tin khác

breaker
MŨI ĐÔI - HÒN ĐÔI (HÒN ĐẦU)
Thế giới biết đến Việt Nam không những chỉ qua quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước mà còn biết đến Việt Nam qua hình ảnh con người hiền hoà, thân thiện, mến khách và có nhiều di sản văn hoá, di sản thiên nhiên đặc sắc. Một trong số đó là danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) ở bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, nơi đón ánh bình minh trên đất liền đầu tiên của Tổ quốc.
VĂN MIẾU DIÊN KHÁNH
Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng.
MIẾU TRỊNH PHONG
Miếu Trịnh Phong tọa lạc giữa thôn Phú Ân Nam 4, xã Diên An, huyện Diên Khánh. Từ thành phố Nha Trang, theo đường 23/10 lên đến ngã tư Thành Diên Khánh là đến di tích, bên trái, cạnh cây Dầu Đôi to lớn đứng sừng sững bên đường 23/10.
VỊNH NHA TRANG
Vịnh Nha Trang có nét đẹp bao la của biển trời với 19 đảo lớn nhỏ nổi bật lên trên nền biển trong xanh và những bãi cát trắng phau, vàng óng dưới ánh mặt trời, trải dài ven bờ trên vòng cung vịnh. Đặc biệt, một số đảo có những hang đá có vô số chim yến về làm tổ, cho nguồn lợi lớn là yến sào được xem là vàng trắng của Việt Nam.
THÀNH DIÊN KHÁNH
Từ thành phố Nha Trang, đi đường 23/10 đến thị trấn Diên Khánh, rẽ phải vào đường Lý Tự Trọng, đi khoảng 500m là đến cổng Đông của Thành Diên Khánh. Thành Diên Khánh là tòa thành được xây dựng ở phủ Diên Khánh, còn là cơ quan hành chính của địa phương dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn.
ĐỊA ĐIỂM DI CHỈ KHẢO CỔ HÒA DIÊM
Hoà Diêm là di tích nằm trên cồn cát cao, cuộc sống phụ thuộc vào nguồn nước ngọt của con sông Tà Lưa và các bàu nước xung quanh vịnh Cam Ranh. Vì ở sát biển nên thức ăn chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn biển như sò, ốc, hàu, cá… là “Văn hoá cồn sò điệp” tích tụ trong tầng văn hoá dày đặc vỏ nhuyễn thể biển; thêm nữa các vết tích xương, răng động vật từ Biển – Núi là thức ăn chính của cư dân ở đây.
BIA CHỦ QUYỀN QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA TẠI ĐẢO SONG TỬ TÂY VÀ ĐẢO NAM YẾT
Khánh Hòa - Xứ Trầm biển yến có bờ biển phía Đông chiều dài theo đường chim bay khoảng 160km, tạo nên vùng bờ biển dài 385km (tính theo mép nước) và khoảng 200 hòn đảo lớn nhỏ ven bờ cùng các đảo san hô trong quần đảo Trường Sa. Bởi vậy, vị trí địa lý của Khánh Hòa có ý nghĩa và tầm ảnh hưởng lớn đến các yếu tố như: Văn hóa, xã hội, kinh tế, quốc phòng - an ninh của tỉnh Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung.
LĂNG BÀ VÚ
Lăng Bà Vú là nơi chôn cất người phụ nữ đã có công giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) qua cơn hoạn nạn lúc giao tranh với nhà Tây Sơn. Công trình do vua chỉ đạo xây dựng theo kiến trúc lăng tẩm để đền ơn đáp nghĩa nên dân gian gọi là lăng.
PHỦ ĐƯỜNG NINH HÒA
Phủ đường Ninh Hòa là công trình kiến trúc có dạng hình chữ nhật với bốn cạnh là tường hồi bít đốc, mặt tiền quay về hướng Đông Nam. Về tổng thể, di tích được kết cấu theo mô típ nhà truyền thống của vùng đồng bằng Khánh Hòa theo kiểu 3 gian 2 chái.
ĐÌNH PHÚ CANG
Đình Phú Cang là tên gọi gắn liền với tên làng Phú Cang (thôn Phú Cang) thuộc xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đình do những cư dân người Việt di cư vào đây xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII để thờ Thành Hoàng làng, phối thờ Thiên Y Thánh Mẫu, và.....